Trên thế giới, BHXH đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc, giúp con người vượt qua được những khó khăn rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như: ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi già Vì thế BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho ASXH của mỗi quốc gia và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên cũng như toàn dân; cụ thể là luôn quan tâm đến phát triển chế độ chính sách BHXH, trong đó vấn đề đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ngày càng được quan tâm đặc biệt.
Kể từ năm 1995 đến nay, số dư quỹ BHXH liên tục tăng; nhưng nếu xét trong trạng thái “động”, cân đối trong thời gian dài khoản 50 năm thì nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH đã được các nhà hoạch định chính sách và quản lý BHXH dự báo: Nếu tính toán theo như chế độ hiện hành thì khoảng năm 2020 thu sẽ cân đối chi, sau đó quỹ giảm dần và đến năm 2030 thì quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt của quỹ xảy ra trong tương lai, tăng tiềm lực tài chính cho quỹ và để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, thì việc đẩy mạnh hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là giải pháp quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu trên và khắc phục những thiếu hụt quỹ, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, nên em rất mong được sự góp ý đánh giá quý báu của các thầy cô để giúp em nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh sách tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về quỹ BHXH và đầu tư quỹ BHXH
- Chương II: Thực trạng hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua
- Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam
73 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2027 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, BHXH đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc, giúp con người vượt qua được những khó khăn rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như: ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi già…Vì thế BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho ASXH của mỗi quốc gia và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên cũng như toàn dân; cụ thể là luôn quan tâm đến phát triển chế độ chính sách BHXH, trong đó vấn đề đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ngày càng được quan tâm đặc biệt.
Kể từ năm 1995 đến nay, số dư quỹ BHXH liên tục tăng; nhưng nếu xét trong trạng thái “động”, cân đối trong thời gian dài khoản 50 năm thì nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH đã được các nhà hoạch định chính sách và quản lý BHXH dự báo: Nếu tính toán theo như chế độ hiện hành thì khoảng năm 2020 thu sẽ cân đối chi, sau đó quỹ giảm dần và đến năm 2030 thì quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt của quỹ xảy ra trong tương lai, tăng tiềm lực tài chính cho quỹ và để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, thì việc đẩy mạnh hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là giải pháp quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu trên và khắc phục những thiếu hụt quỹ, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, nên em rất mong được sự góp ý đánh giá quý báu của các thầy cô để giúp em nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh sách tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quỹ BHXH và đầu tư quỹ BHXH
Chương II: Thực trạng hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
I. TỔNG QUAN VỀ BHXH
1. Khái niệm BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại…Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đâu hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm…Khi rơi và những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị ốm đâu, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng…Bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế phát triển thì quan hệ thuê mướn cũng ngày càng phổ biến và quan hệ chủ thợ cũng hình thành. Để đảm bảo lợi ích của người lao động Chính phủ đã xây dựng lên một quỹ chung do Chính phủ đứng ra tổ chức và yêu cầu:
- Giới chủ phải trích từ phần lợi nhuận thu được một khoản tiền nhất định để đóng góp vào quỹ này;
- Giới thợ phải trích từ tiền công, tiên lương hàng tháng một khoản nhỏ để nộp vào quỹ này;
- Chính phủ hứa sẽ bảo trợ cho quỹ và thậm chí bù thiếu cho quỹ.
Quỹ này được sử dụng với mục đích để phân phối lại cho những người lao động không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Mối quan hệ ràng buộc như vậy được thế giới gọi là BHXH đối với người lao động.
Cho đến nay vẫn chưa có được một khái niệm chính thống về BHXH. Trong đề tài này chỉ xin đưa ra hai khái niệm khá phổ biến và dễ hiểu về BHXH:
- “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biệm pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của tổ chức lao động quốc tế ILO, phản ánh một các tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người.
2. Bản chất của BHXH
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kì Nhà nước nào, nhằm bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với cách hiểu như vậy, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản…Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá :
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận.
3. Đối tượng và chức năng của BHXH
3.1. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Âu. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nứoc mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
3.2. Chức năng của BHXH
Với đối tượng nói trên, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất, nó liên quan đến toàn bộ hoạt động BHXH nói chung. Sở dĩ như vậy vì:
+ Nó góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ từ một nguồn thu nhập khác là BHXH;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây liên quan đến toàn bộ quá trình lao động và người lao động, quá trình này thể hiện chủ yếu ở tiền lương tiền công;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây lại phụ thuộc chủ yếu ở quỹ BHXH.
- Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Chức năng này góp phần trực tiếp đảm bảo tính công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất để từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động - người sử dụng lao động - xã hội. Sở dĩ như vậy là vì:
+ Cả ba bên đều thấy mình có lợi;
+ Chính sách BHXH ra đời góp phần thực hiện an sinh xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trong phạm vi quốc tế.
4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH
BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này cũng có nghĩa là khó có thể có những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ, mọi quốc gia. Tuy nhiên BHXH cũng có những nguyên tắc hoạt động cơ bản:
- Nguyên tắc: “Số đông bù số ít”.
Đây là nguyên tắc bất di bất dịch của BHXH nói riêng và của bảo hiểm nói chung. Nó được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù và chi trả bảo hiểm.
- Nguyên tắc: “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và được hưởng quyền lợi từ BHXH”;
BHXH là một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế,xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
- Nguyên tắc: “ BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện”;
BHXH bắt buộc là cơ sở để tiến tới thực hiện BHXH toàn dân và tiến tới xây dựng hệ thống chế độ BHXH tối ưu nhất. Tính bắt buộc được thực hiện trong các nghĩa vụ tham gia và nghĩa vụ đóng góp, gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Hơn nữa, tính bắt buộc này được thể hiện hoá ở hầu hết các nước dưới hình thức các chính sách, chế độ BHXH, cụ thể là những quy định của Chính phủ hay luật BHXH.
Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân.
- Nguyên tắc: “ Đảm bảo tính công bằng trong xã hội”;
Tính công bằng trong BHXH gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích của số đông cộng đồng. Mặc dù vậy, tính công bằng tuyệt đối là không thể có vì BHXH còn hoạt động theo một nguyên tắc chung của bảo hiểm đó là nguyên tắc: “Số đông bù số ít”.
- Nguyên tắc: “ Xác định mức đóng và hưởng hợp lý”;
Đóng và hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công bằng. Mặt khác, sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia thực tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi quốc gia; có như vậy người lao động mới tự giác đóng góp vào quỹ BHXH theo quy định.
- Nguyên tắc: “ BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao động để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm thời cũng như nghỉ hưu”.
5. Hệ thống các chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách cơ bản nhất của mỗi quốc gia, thường được Nhà nước luật hoá căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ cũng như đặc điểm của nguồn lao động xã hội và việc phân ngành kinh tế xã hội…Còn chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH của mỗi nước; cụ thể hoá mục đích của từng chế độ, đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHXH.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919), tổ chức lao động quốc tế được thành lập ( viết tắt là ILO). Sự kiện này đã góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển chính sách BHXH. Năm 1952, ILO có khuyến cáo các nước trên thế giới tham gia công ước 102 (Tháng 6 năm 1952 tại Giơne vơ - Thụy Sỹ). Tại công ước này, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tiền tuất
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp các nước;
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định;
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ;
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH;
+ Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.
Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia…Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: Tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động…
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BHXH
1. Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp những biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có cùng bản chất, chức năng và có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng. Hoạt động của NSNN và quỹ BHXH đều không nhằm mục đích kiếm lời. Quá trình hình thành và sử dụng của mỗi loại đều được biểu hiện dưới hình thức giái trị (tiền tệ). Việc thu - chi ngân sách và quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối nguồn thu và chi …
Tuy nhiên, giữa NSNN và quỹ BHXH có những điểm khác nhau cơ bản. NSNN ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng mở rộng thì thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của nhà nước mang tính pháp lý rất cao và dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Quan hệ phân phối này chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội được phát triển ổn định. Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, các quan hệ thuê mướn nhân công. Mặc dù thu - chi BHXH đều được Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên tắc có tham gia thì mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH có tính chất pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
2. Đặc trưng của quỹ BHXH
Mặc dù là một quỹ tài chính nhưng phục vụ cho mục tiêu xã hội, vì vậy quỹ BHXH có những nét đặc trưng riêng khác với những loại quỹ tài chính khác.Cụ thể:
- Việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận
Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao động,người sử dụng lao động, Nhà nước trong một số trường hợp và các nguồn thu hợp pháp khác để có một lượng tiền đủ lớn, đảm bảo đủ chi trả các trợ cấp BHXH cho các trường hợp bị giảm hoặc bị mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động do gặp phải những sự kiện hoặc những “rủi ro xã hội” đã nêu và những chi phí cho hoạt động thường xuyên của bộ máy BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong kết cấu phí BHXH không tính phần lợi nhuận của bên bảo hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng phí BHXH chỉ bao gồm phí thuần và phụ phí (bao gồm quản lý phí và phí dự phòng - nếu có). Trong quá trình sử dụng quỹ, các chi phí chi trả trợ cấp BHXH chiếm phần lớn trong tổng chi, phần chi quản lý thường chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và những chi phí này là những chi phí thực sự cần thiết đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động bình thường.
- Quỹ BHXH vừa có tính chất hoàn trả vừa có tính chất không hoàn trả:
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ: người lao động vừa là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người khác nhau tuỳ thuộc vào những biến cố, rủi ro mà họ phải gặp, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng có những người được ít lần hơn thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
- Quỹ BHXH có quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính. Đặc trưng này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “của để giành” của người lao động phòng khi ốm đau tai nạn, tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một t