QLNN về ANTT và phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó lực lượng CAND là nòng cốt. Trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý Nhà nước về ANTT ở địa bàn cơ sở thì vai trò của lực lượng CSKV càng được đề cao.
Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của lực lượng CSKV, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo ANTT trong tình hình hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công an đã kí Quyết định số 106/2007/QĐ-BCA (C11) ngày 13/2/2007 ban hành Điều lệnh CSKV thay cho Điều lệnh CSKV đã ban hành theo Quyết định số 118/QĐ-BNV ngày 29/6/1994. Điều lệnh CSKV mới đã có nhiều thay đổi về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức và lề lối làm việc của CSKV sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Nhận thức được vấn đề trên, Công an phường Quan Hoa đã quan tâm chỉ đạo lực lượng CSKV trong việc tăng cường biện pháp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao nhất là các mặt công tác cơ bản và thu được nhiều kết quả nhất định. Trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản của mình, CSKV đã tăng cường các biện pháp QLNN về ANTT tại cơ sở, tiến hành thường xuyên công tác vận động quần chúng, tích cực đưa ra các giải pháp giảm tai nạn giao th«ng, phòng chống đua xe và làm tốt các mặt công tác cơ bản. Qua một thời gian thực hiện theo Điều lệnh CSKV- 2007, lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa đã đạt được nhiều thành tích được Công an quận và Công an Thành phố ghi nhận. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn chưa triệt để, còn tồn tại nhiều bất cập: CSKV chủ yếu tập trung giải quyết công việc mang tính chất sự, vụ việc hành chính đơn thuần, các công tác theo yêu cầu của cấp trên. Một số cán bộ chiến sỹ chưa có sự nhận thức đúng về chức năng nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện các mặt công tác cơ bản. Lực lượng CSKV còn ít trong khi đó địa bàn rộng, tình hình ANTT phức tạp, một số ít CSKV chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản nên hiệu quả công tác chưa cao. Xuất phát từ những vấn đề bất cập nảy sinh nêu nên việc chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” có tính cần thiết về nhận thức và thực tiễn.
30 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7763 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng cảnh sát khu vực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
QLNN về ANTT và phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó lực lượng CAND là nòng cốt. Trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý Nhà nước về ANTT ở địa bàn cơ sở thì vai trò của lực lượng CSKV càng được đề cao.
Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của lực lượng CSKV, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo ANTT trong tình hình hiện nay, Bộ trưởng Bộ Công an đã kí Quyết định số 106/2007/QĐ-BCA (C11) ngày 13/2/2007 ban hành Điều lệnh CSKV thay cho Điều lệnh CSKV đã ban hành theo Quyết định số 118/QĐ-BNV ngày 29/6/1994. Điều lệnh CSKV mới đã có nhiều thay đổi về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức và lề lối làm việc của CSKV sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Nhận thức được vấn đề trên, Công an phường Quan Hoa đã quan tâm chỉ đạo lực lượng CSKV trong việc tăng cường biện pháp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao nhất là các mặt công tác cơ bản và thu được nhiều kết quả nhất định. Trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản của mình, CSKV đã tăng cường các biện pháp QLNN về ANTT tại cơ sở, tiến hành thường xuyên công tác vận động quần chúng, tích cực đưa ra các giải pháp giảm tai nạn giao th«ng, phòng chống đua xe và làm tốt các mặt công tác cơ bản... Qua một thời gian thực hiện theo Điều lệnh CSKV- 2007, lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa đã đạt được nhiều thành tích được Công an quận và Công an Thành phố ghi nhận. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn chưa triệt để, còn tồn tại nhiều bất cập: CSKV chủ yếu tập trung giải quyết công việc mang tính chất sự, vụ việc hành chính đơn thuần, các công tác theo yêu cầu của cấp trên. Một số cán bộ chiến sỹ chưa có sự nhận thức đúng về chức năng nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện các mặt công tác cơ bản. Lực lượng CSKV còn ít trong khi đó địa bàn rộng, tình hình ANTT phức tạp, một số ít CSKV chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản nên hiệu quả công tác chưa cao. Xuất phát từ những vấn đề bất cập nảy sinh nêu nên việc chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” có tính cần thiết về nhận thức và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đich nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề thực tiễn trong thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV, tìm ra những nguyên nhân và hạn chế để có biện pháp khắc phục cho phù hợp.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hiểu rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV.
Tìm ra những nguyên nhân, tồn tại, khó khăn vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện để đưa ra biện pháp phù hợp.
Phân tích những tác động ảnh hưởng tới kết quả và quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung đi sâu nghiên cứu 4 mặt công tác cơ bản của CSKV theo phạm vi chức năng của CSKV và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn phường Quan Hoa - Cầu Giấy - Hà Nội. Quá trình nghiên cứu khảo sát lấy số liệu thực tế từ năm 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về phép Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử. Các quan điểm chủ trương đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước, quy định của Bộ Công an về công tác phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm, quản lý Nhà nước về ANTT.
Trong quá trình thực hiện đề tài có sử dụng một số phương pháp cụ thể như:khảo sát thực tế, thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, trao đổi kinh nghiệm, so sánh….
5. Ý nghĩa của việc nghiên cức đề tài
- Về mặt lí luận: Kết quả của việc nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung, nhận thức của bản thân về việc thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV. - Về mặt thực tiễn: Kết quả của việc nghiên cứu đề tài giúp cho Công an địa phương có điều kiện nắm tình hình, đánh giá kết quả việc tổ chức thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV. Kịp thời phát hiện và khắc phục những tồn tại thiếu sót trong quá trình tiến hành. Đánh giá và các đề xuất, giải pháp là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động của CSKV trong việc thực hiện các mặt công tác cơ bản trong tình hình hiện nay đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm.
6. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được xây dựng 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm có 2 chương:
- Chương 1: Tình hình thực hiện các mặt công tác cơ bản của CSKV trên địa bàn phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Chương 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC MẶT CÔNG TÁC CƠ BẢN CỦA CSKV PHƯỜNG QUAN HOA, QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số tình hình đặc điểm có liên quan
1.1.1. Đặc điểm địa bàn
Thực hiện Nghị định số 74/NĐ-CP ngày 22/11/1996 của Chính phủ về việc thành lập quận Cầu Giấy, ngày 01/9/1997 quận Cầu Giấy chính thức được thành lập với tất cả 8 phường. Phường Quan Hoa ra đời cùng với sự ra đời cùng thời gian thành lập quận Cầu Giấy.
Quan Hoa là một phường trọng điểm của quận Cầu Giấy, có vị trí địa lý rất quan trọng: giáp ranh với quận Ba Đình, Tây Hồ, Đống Đa, phía tây giáp huyện Từ Liêm. Phường Quan Hoa là nơi tập trung nhiều cơ quan của quận như: Quận ủy, HĐND, UBND, Quận đội, Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân. Đặc biệt có trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và Nhà nước đóng trên địa bàn thường xuyên có công dân từ các tỉnh thành đến khiếu kiện. Ngoài ra còn có bảo tàng dân tộc học thường xuyên có các đoàn khách nước ngoài đến tham quan.
Tình hình kinh tế xã hội đang được các cấp các ngành của phường quan tâm chỉ đạo một cách sát sao. Quan Hoa là phường có quá trình đô thị hóa nhanh.Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã làm cho kinh tế của phường Quan Hoa có nhiều chuyển biến rõ rệt: đời sống của nhân dân trong phường đã được nâng cao, có nhiều dự án cải tạo nâng cấp hạ tầng đô thị; dự án cải tạo đường thoát nước của thành phố dọc bờ sông Tô Lịch cũng như các dự án mở đường cải tạo hệ thống giao thông đô thị đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân. Có thể thấy rằng nền kinh tế của phường Quan Hoa đang phát triển một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực: kinh doanh, dịch vụ…
1.1.2. Đặc điểm dân cư
Quan Hoa là địa bàn đông dân 26501 người có thành phần dân cư đa dạng. Qua kết quả thống kê đến tháng 12 năm 2010 trên địa bàn phường Quan Hoa có tổng số 4.896 hộ = 26.254 nhân khẩu, trong đó chủ yếu là hộ KT1 có 3.910 hộ = 14.275 nhân khẩu, nhân khẩu từ 14 tuổi trở lên có 10.974 nhân khẩu. Trong độ tuổi lao động có 8.711 nhân khẩu, số có việc làm là 8.502 nhân khẩu, không có việc làm hoặc đủ điều kiện lao động là 209 nhân khẩu. Hộ KT2 đi có 162 hộ trong đó nhân khẩu lẻ là 317 nhân khẩu. KT2 đến có 735 hộ trong đó nhân khẩu lẻ là 477 nhân khẩu. Hộ KT3 có 103 hộ trong đó có 4, nhân khẩu lẻ là 3.350 trong đó có 3.698 nhân khẩu trong độ tuổi lao động. Số nhân hộ khẩu này thường xuyên có sự biến động theo chiều hướng gia tăng.
Trên địa bàn phường có Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương với số lượng sinh viên tạm trú lớn: 4.155 sinh viên. Trong đó số lượng sinh viên ở trong kí túc xá của trường là 320, còn lại số sinh viên tạm trú trong các hộ dân cư trên địa bàn là 3.835. Không chỉ có số lượng sinh viên tạm trú đông mà trên địa bàn có nhiều người của 25 tỉnh thành trên cả nước đến cư trú, mua nhà hoặc thuê trọ trong các nhà trọ bình dân. Hiện nay, trên địa bàn phường có 610 hộ có nhà cho thuê trọ bình dân nhưng các điều kiện đảm bảo ANTT rất kém trong khi đó cơ chế quản lý còn rất nhiều bất cập tạo điều kiện cho các loại tội phạm và tệ nạn xã hội hoạt động gây phức tạp về ANTT. Ngoài ra trên địa bàn phường còn có 36 nhà nghỉ, 10 khách sạn, 13 cơ sở karaoke và 28 hiệu cầm đồ. Đây cũng là môi trường dễ phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình người nước ngoài tạm trú trên địa bàn nhìn chung có nhiều biến động, chủ yếu là Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước Châu Âu làm việc trong các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài hoặc đến Hà Nội tham quan du lịch.
Về tôn giáo, trên địa bàn phường vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp dễ phát sinh mê tín dị đoan và truyền đạo trái phép. Trên địa bàn phường có 04 Chùa, 04 đình, 28 người theo đạo Hồi, 08 người theo đạo tin lành. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị bọn phản động lợi dụng lôi kéo kích động tạo ra sự phức tạp gây mất ổn định ANTT.
1.1.3. Tình hình an ninh trật tự
- Về ANCT: Nhìn chung tình hình ANCT trong nội bộ phường ổn định, dư luận quần chúng không còn nhiều bức xúc, tuy nhiên vẫn còn tồn tại tình trạng đơn thư khiếu kiện với quy mô và tính chất đơn lẻ. Các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, truyền đạo trái phép không còn có những biểu hiện hoạt động như trước. Tình hình mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân vẫn có chiều hướng phức tạp, chủ yếu là các mâu thuẫn gia đình có liên quan đến tài sản. Không có hiện tượng khiếu kiện đông người vượt cấp … Tuy vậy tình hình hoạt động khiếu kiện tại điểm tiếp dân của Trung ương Đảng ở 110 Cầu Giấy còn nhiều diễn biến phức tạp. Số lượng người dân ở các tỉnh về tập trung đưa đơn khiếu kiện ngày càng tăng đặc biệt là các đoàn khiếu kiện đông người vào các dịp quốc hội họp. Từ ngày 28/11/2009 đến nay đã có tổng số 417 đoàn = 33.219 người kéo đến trụ sở tiếp dân tại 110 Cầu Giấy gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Lợi dụng việc khiếu nại, số đối tượng chính trị bất mãn đã đến đây kích động nhân dân gây rối, treo cờ, băng rôn, khẩu hiệu. Chính vì thế tại trụ sở tiếp dân liên tiếp xảy ra các vụ gây rối làm ảnh hưởng đến ANTT của địa phương như: Nhân dân các tỉnh khác kéo đến khiếu kiện gây rối TTCC, hủy hoại tài sản của cơ quan nhà nước, đe dọa tự thiêu….Việc tụ tập khiếu kiện của các nhóm người này đã làm ùn tắc giao thông trên tuyến đường Cầu Giấy gây mất mĩ quan về trật tự đô thị và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân. Tình hình người nước ngoài tạm trú trên địa bàn không có gì biến động lớn, họ tập trung chủ yếu trong các khách sạn. Số người nước ngoài tạm trú trong các hộ dân cư tuy có tăng nhưng không đáng kể. Người nước ngoài trong quá trình tạm trú tại địa bàn đã chấp hành đầy đủ các quy định của địa phương nên chưa phát hiện ra các hành vi vi phạm có liên quan đến ANTT.
- Về TTATXH: Tình hình TTATXH vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; đáng chú ý là hoạt động của các loại tội phạm. So với năm 2009 thì tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội tuy có giảm hơn về số lượng và tính chất tuy nhiên vẫn có những diễn biến phức tạp. Năm 2010 tội phạm cướp giật, trộm xe máy, trộm tài sản của học sinh, sinh viên vẫn ở mức cao. Theo thống kê của Công an phường Quan Hoa năm 2010 số lượng các vụ việc đã giảm 10% so với năm 2009. Cụ thể: Giết người: 01 vụ; Cướp: 01 vụ; Cướp giật: 03 vụ; Trộm tài sản: 23 vụ. Quan Hoa là phường có tốc độ đô thị hóa nhanh có nhiều hình thức kinh doanh trên các tuyến đường. Dọc trên tuyến đường Nguyễn Khánh Toàn kéo dài sang Nguyễn Văn Huyên thường họp chợ vào buổi tối nên đã thu hút nhiều sinh viên và nhân dân trên địa bàn. Lợi dụng sơ hở của người mua hàng các đối tượng xấu thường có hành vi trộm xe máy hoặc cướp giật túi xách của người mua hàng… Là địa bàn có nhiều sinh viên và người ngoại tỉnh tạm trú nên vấn đề ANTT trong các hộ cho thuê trọ rất phức tạp. Trong các nhà cho thuê trọ thường xuyên xảy ra các vụ mất tiền, mất laptop, xe máy, xe đạp. Trên địa bàn không phát sinh các tụ điểm mai dâm, ma túy nhưng hiện tượng buôn bán lẻ ma túy của các đối tượng nơi khác đến còn diễn ra, tệ nạn mại dâm công cộng vẫn còn tiềm ẩn. Tình hình cờ bạc vẫn diễn biến phức tạp nhưng quy mô nhỏ, chỉ tập trung vào mua bán số đề là chủ yếu. Trên địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố mới có thể phát sinh tội phạm: Số lượng các cơ sở kinh doanh có điều kiện ngày càng gia tăng, tập trung chủ yếu vào loại hình kinh doanh nhà nghỉ và karaoke. Năm 2009 trên địa bàn phường có tổng số 33 cơ sở kinh doanh khách sạn nhà nghỉ, 11 cơ sở kinh doanh karaoke. Đến năm 2010 số lượng cơ sở kinh doanh khách sạn nhà nghỉ tăng lên 44 cơ sở và 16 cơ sở kinh doanh karaoke. Quan Hoa là phường có số hộ cho thuê trọ khá đông, tính đến năm 2010 trên địa bàn phường có khoảng 442 hộ cho thuê trọ. Số lượng học sinh, sinh viên và người tỉnh ngoài tạm trú đông, đây chính là môi trường, là điều kiện làm phát sinh tội phạm.
1.2. Thực trạng thực hiện các mặt công tác cơ bản của Cảnh sát khu vực Công an phường Quan Hoa
1.2.1. Tình hình tổ chức lực lượng và phân công địa bàn công tác cho Cảnh sát khu vực Công an phường Quan Hoa
- Kết quả khảo sát tình hình lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa từ năm 2007 đến năm 2010 cho thấy (Phụ lục 2):
Hiện nay, số lượng cán bộ chiến sỹ Công an phường Quan Hoa là 30 đồng chí trong đó lực lượng CSKV là 09 đồng chí (chiếm 33% quân số của phường), lực lượng CSTT là 05 đồng chí, CSHS là 06 đồng chí và trực ban là 05 đồng chí. Lực lượng CSKV chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Ban chỉ huy Công an phường và sự hướng dẫn nghiệp vụ của Đội QLHC về TTXH của Công an quận. CSKV được lựa chọn là những người có phẩm chất đạo đức, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn. Trong tổng số 09 đồng chí CSKV thì có 6 đồng chí có trình độ đại học, 03 đồng chí được đào tạo qua Trung học cảnh sát, 6/9 đồng chí được đào tạo chuyên ngành QLHC về TTXH. Số lượng CSKV là Đảng viên là 08 đồng chí và có 01 đồng chí đang chuẩn bị kết nạp.
Về độ tuổi: CSKV dưới 30 tuổi là 05 đồng chí (chiếm 55,5%). Từ 30 tuổi đến 50 tuổi là 04 đồng chí (chiếm 44,4%). Trên 50 tuổi không có đồng chí nào.
Về cấp bậc: Hạ sĩ quan có 01 đồng chí( chiếm 11,1%), cấp úy có 06 đồng chí (chiếm 66,6%); cấp tá có 02 đồng chí (chiếm 22,2%).
Để đánh giá phân loại CSKV thì Công an phường Quan Hoa đã thường xuyên kiểm tra định kì chất lượng CSKV 2 năm 1 lần( loại 1: là những người có năng lực, phẩm chất tốt; loại 2: là những người có phẩm chất tốt nhưng năng lực còn hạn chế; loại 3: là những người yếu về phẩm chất và năng lực; loại 4: là những người thoái hóa biến chất thường xuyên vi phạm kỉ luật). Hiện nay phần lớn CSKV Công an phường Quan Hoa xếp loại 1.Trên cơ sở phân loại CSKV Công an phường và quận đã có kế hoạch xử lý, điều chuyển công tác, phân công địa bàn cho CSKV. Đối với những đồng chí xếp loại 2 thì có kế hoạch tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ. Đối với những đồng chí xếp loại 1 sẽ giao cho quản lý những địa bàn phức tạp về ANTT.
Lực lượng CSKV thường xuyên được Công an quận và Công an thành phố tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà Nước, giới thiệu về hệ thống các văn bản mới ban hành có liên quan tới công tác quản lý địa bàn, các biện pháp phòng ngừa trong giai đoạn hiện nay…
- Kết quả khảo sát tình hình phân công địa bàn công tác của lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa từ năm 2007 đến năm 2010 cho thấy ( phụ lục 3):
Căn cứ vào quy định của điều lệnh CSKV năm 2007 thì phường có 2 loại địa bàn cụ thể: địa bàn bình thường và địa bàn phức tạp, không có địa bàn rất phức tạp. Từ năm 2007 đến 2010 số lượng địa bàn bình thường có xu hướng giảm tuy nhiên địa bàn phức tạp lại tăng và năm sau thì cao hơn năm trước. Sự gia tăng này đã tác động không nhỏ đến quá trình quản lý của lực lượng CSKV. Hiện nay trên địa bàn phường có rất nhiều địa bàn phức tạp: dọc tuyến đường Cầu Giấy, trụ sở tiếp dân 110 Cầu Giấy, ngõ 68 tổ 8 Quan Hoa,… đây là những địa bàn phức tạp thường xuyên xảy ra tranh chấp đất đai, khiếu kiện, hoạt động ma túy, mại dâm gây khó khăn cho lực lượng quản lý.
Số lượng nhân hộ khẩu trên địa bàn ngày càng gia tăng trong khi đó số lượng CSKV lại ít chính vì thế dẫn đến tình trạng một CSKV phải quản lý quá nhiều hộ. Hiện nay lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa đang phải quản lý số hộ khẩu được phân bố theo địa bàn dân cư như sau: Đối với những địa bàn phức tạp về ANTT từ 250- 350 hộ là 02 đồng chí, từ 351-550 hộ là 05 đồng chí, từ 551-650 hộ là 02 đồng chí. Như vậy so với các quy định trong Điều lệnh CSKV thì lực lượng CSKV Công an phường Quan Hoa đang phải quản lý số lượng lớn nhân hộ khẩu vượt quá lớn so với quy định. Đây là một bất cập lớn trong quá trình công tác của CSKV.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do tốc độ đô thị hóa nhanh, số lượng người ngoại tỉnh và sinh viên đến thuê trọ ngày càng tăng nên đã gây khó khăn cho công tác quản lý của lực lượng CSKV. Bên cạnh đó việc phân công địa bàn cho từng CSKV còn nhiều bất cập chưa thực sự phù hợp với năng lực và trình độ, chưa tương xứng với địa bàn quản lý: tình trạng CSKV giỏi quản lý địa bàn bình thường, CSKV mới còn chưa có nhiều kinh nghiệm thì lại quản lý những địa bàn trọng điểm phức tạp về ANTT. Mặt khác quá trình luân chuyển công tác cho CSKV cũng như việc thay đổi địa bàn đã không tạo điều kiện thuận lợi cho CSKV trong quá trình nắm tình hình địa bàn.
1.2.2.Thực trạng thực hiện các mặt công tác cơ bản của lực lượng CSKV
1.2.2.1. Lực lượng CSKV thực hiện công tác nắm tình hình về ANTT trên địa bàn
Công tác nắm tình hình về ANTT là một công việc vô cùng quan trọng có ý nghĩa trong quá trình công tác của lực lượng CSKV. Đây vừa là một nhiệm vụ vừa là phương pháp công tác cơ bản của CSKV trong quá trình thu thập thông tin về con người, sự vật, hiện tượng trong địa bàn có liên quan đến ANTT. Qua quá trình nghiên cứu các thông tin thu thập được, lực lượng CSKV sẽ xem xét, xác minh lại những nguồn thông tin có giá trị để tham mưu cho cơ quan cấp trên trong quá trình đưa ra các chủ trương biện pháp tổ chức thực hiện các mặt công tác nhằm giữ vững ANTT trên địa bàn.
Từ năm 2007- 2010 lực lượng CSKV đã chủ động nắm tình hình và tiếp nhận được 2.913 tin, trong đó tin có giá trị là 1.195 tin.Tại thời điểm năm 2010 lực lượng CSKV nhận được 751 tin trong đó 330 tin là có giá trị. Các thông tin mà CSKV tiếp nhận được là từ nhiều nguồn khác nhau. Qua phân tích ta thấy:
- Nắm tình hình thông qua nguồn tin do quần chúng nhân dân cung cấp
Trong quá trình quản lý địa bàn một nguyên tắc không thể thiếu của CSKV là phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân. Đây là lực lượng đông đảo thường xuyên cư trú trực tiếp trong các địa bàn dân cư nên họ có thể tham gia vào công tác phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm một cách lâu dài. Đây là những người trực tiếp thu thập những thông tin có liên quan đến ANTT trên địa bàn dân cư để lực lượng CSKV kịp thời nắm bắt được tình hình, quá trình hoạt động của tội phạm để từ đó có thể áp dụng biện pháp quản lý sao cho phù hợp. Nhận thức được vai trò tầm quan trọng của quần chúng trong bảo vệ ANTT nên hàng năm CSKV thường xuyên phối hợp với cán bộ cơ sở để tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu được các nội dung trong các chủ trương, kế hoạch về việc vận động quần chúng nhân dân tham gia tố giác tội phạm. Tuyên truyền hướng dẫn cho nhân dân biết các dấu hiệu của tội phạm và những phương thức thủ đoạn mà tội phạm thường xuyên sử dụng để nhân dân có biện pháp phòng ngừa và cung cấp thông tin kịp thời cho CSKV.
Tổng số tin do quần chúng cung cấp từ năm 2007- 2010 là 503 tin chiếm 17,2% so với tổng số tin.Tin có giá trị là 227 tin chiếm 45% tống số tin có giá trị. Số lượng thông tin thu thập được của năm sau cao hơn năm trước. Trên cơ sở các nguồn thông tin mà CSKV thu thập được từ quần chúng đã giúp cho Chỉ huy Công an phường, cấp ủy Đảng và Chính quyền các cấp nắm được tình hình về ANTT, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, những vấn đề bức xúc trong quần chúng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân… để từ đó có biện pháp quản lý cho phù hợp.
Ví dụ: Hồi 23h30 ngày 15/11/2010 phòng trực ban Công an phường Quan Hoa có nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc có 1 nhóm đối tượng khoảng 15-16 tuổi dùng dao, mã tấu đang đánh nhau trước cửa Bảo tàng dân