Đầu tư sản xuất bù đắp cho những thiếu hụt của tiêu dùng, từ đó tăng số
lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và khuyến khích
sản xuất phát triển. Như vậy đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia.
Hiện nay ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc thiết bị,
công nghệ lạc hậu và đang rất cần nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để
cải tiến, nâng cao chất lượng sản xuất. Chính vì vậy, vai trò của Ngân hàng thương
mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chiếm vị trí rất quan
trọng. Nó là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Là người dẫn vốn từ nơi thừa
sang nơi thiếu, đẩy nhanh sự hình thành và phát triển của thị trường vốn. Từ đó đáp
ứng được nhu cầu về vốn, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất
nước.
Các Ngân hàng thương mại ở nước ta hình thành với hoạt động trong nền
kinh tế thị trường với khoảng thời gian hơn 10 năm đổi mới. Nên hoạt động tín
dụng của các Ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều vướng mắc, loại hình hoạt động
chưa đa và phong phú, chất lượng chưa cao. Vì vậy đề tài “Giải pháp nâng cao và
mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay”
được lựa chọn. Mục tiêu của đề tài là làm rõ các khái niệm về Ngân hàng thương
mại và tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó xem xét thực trạng của hoạt động này và
đánh giá những ưu nhược điểm để đưa ra những kiến nghị và giải pháp về tín dụng
Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương I: các loại tín dụng – Vai trò của tín dụng Ngân hàng.
Chương II: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương III: giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại Việt Nam.
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt
động tín dụng của Ngân hàng thương
mại ở Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu.
Đầu tư sản xuất bù đắp cho những thiếu hụt của tiêu dùng, từ đó tăng số
lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và khuyến khích
sản xuất phát triển. Như vậy đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia.
Hiện nay ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc thiết bị,
công nghệ lạc hậu và đang rất cần nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để
cải tiến, nâng cao chất lượng sản xuất. Chính vì vậy, vai trò của Ngân hàng thương
mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chiếm vị trí rất quan
trọng. Nó là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Là người dẫn vốn từ nơi thừa
sang nơi thiếu, đẩy nhanh sự hình thành và phát triển của thị trường vốn. Từ đó đáp
ứng được nhu cầu về vốn, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất
nước.
Các Ngân hàng thương mại ở nước ta hình thành với hoạt động trong nền
kinh tế thị trường với khoảng thời gian hơn 10 năm đổi mới. Nên hoạt động tín
dụng của các Ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều vướng mắc, loại hình hoạt động
chưa đa và phong phú, chất lượng chưa cao. Vì vậy đề tài “Giải pháp nâng cao và
mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay”
được lựa chọn. Mục tiêu của đề tài là làm rõ các khái niệm về Ngân hàng thương
mại và tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó xem xét thực trạng của hoạt động này và
đánh giá những ưu nhược điểm để đưa ra những kiến nghị và giải pháp về tín dụng
Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương I: các loại tín dụng – Vai trò của tín dụng Ngân hàng.
Chương II: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương III: giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại Việt Nam.
Chương i: các loại hình tín dụng – vai trò tín dụng Ngân hàng.
i. khái niệm
1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động sản xuất và trao
đổi hàng hoá. Tín dụng xuất hiện trên cơ sở sự mất cân đối về nguồn nhân lực và
nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực vào đời sống và sản xuất. Khu vực cần nguồn lực
để sử dụng trong đời sống và sản xuất sẽ thu hút bằng cách vay mượn, thuê quyền
sử dụng nguồn lực của khu vực dư thừa.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn, là quá trình chuyển nhượng tạm thời
về quyền sử dụng vốn giữa người cho vay và người đi vay. Quan hệ này được hình
thành và hoạt động hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian thoả thuận. Lãi vay là
chi phí cho việc sử dụng lượng vốn vay.
Đặc điểm của tín dụng là trong quá trình tín dụng không có sự vận động của
quyền sở hữu. Người đi vay chỉ được quyền sử dụng lượng vốn vay và cũng chỉ
phải trả chi phí cho việc sử dụng lượng vốn này.
Chức năng của tín dụng là cung cấp, điều phối và quản lý vốn trong nền kinh
tế. Cụ thể là:
- Huy động và tập trung vốn để cho vay: các bên của quản lý vay và đi vay
đều có thể là các doanh nghiệp, dân cư hay Chính phủ (tại từng thời điểm) thiếu hay
thừa vốn. Ngoài ra cung hoặc cầu cho vay còn có thể là sự gia tăng hay giảm thấp
mức cung tiền tệ.
- Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là việc đảm bảo tính hiệu quả và hợp
pháp của việc sử dụng vốn. Người đi vay sẽ phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
người cho vay nhằm đảm bảo vốn vay sẽ được sử dụng có hiệu quả và đúng với
mục đích ban đầu.
Vai trò của tín dụng rất quan trọng, hoạt động tín dụng tác động tới cả hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Đó là:
- Làm quá trình sản xuất diễn ra một cách thường xuyên và ổn định.
- Tích tụ và tập trung vốn tạo ra sự phát triển kinh tế và hình thành nguồn
vốn.
- Về mặt xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
- Được sử dụng như một công cụ vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, điều chỉnh
cơ cấu thông qua điều chỉnh vốn, chống lạm phát ổn định tiền tệ (chính sách lãi
suất, cửa sổ chiết khấu).
- Hướng dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
-Kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
2. Một số hình thức tín dụng chủ yếu.
Tín dụng thương mại: là sự vay mượn bằng hàng hoá )được quy ra tiền) được
bên mua bán thoả thuận kỳ hạn trả nợ cũng như cách thức xử lý phát sinh khi rủi ro
có thể xảy ra trước kỳ hạn trả nợ. Nói cách khác tín dụng thương mại là hình thức
vận dụng giữa những người mau bán chịu hàng hoá của nhau, hai bên mua bán thoả
thuận định kỳ thanh toán cho nhau.
Tín dụng thương mại có ưu điểm là làm cho người sản xuất chú ý đến chất
lượng sản phẩm và thị hiếu người tiêu dùng, tìm cách hạ giá thành sản phẩm để tiêu
thụ nhanh chóng, khắc phục tình trạng găm hàng chờ giá cao, mua bán lòng vòng, và
tạo điều kiện thuận lợi cho cả người mua và người bán.
Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm như:
Thứ nhất có sự hạn chế về không gian địa lý và nếu đến kỳ thanh toán mà vì
một lý do nào đó đối tác không thanh toán hoặc không có đủ tiền thanh toán thì tín
dụng sẽ gặp bế tắc.
Thứ hai: tổng số tín dụng thương mại sẽ bị giới hạn bởi quy mô của vốn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi hiệu có trong tay các đơn vị có quan hệ mua bán chịu hàng hoá
của nhau.
Thứ ba, tín dụng thương mại bị giới hạn về mục đích sử dụng, nó chỉ diễn ra
với các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau trong mua bán hàng hoá.
- Tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi
giữa Ngân hàng và các thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng Ngân hàng hình
thành trên cơ sở các nghiệp vụ Ngân hàng. Hình thức tín dụng này khắc phục được
hầu hết các nhu cầu cho sự phát triển kinh tế. Do đó có thể nói đây là hình thức tín
dụng chủ yếu và quan trọng nhất ở mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
- Tín dụng Nhà nước: là quan hệ tín dụng mà Nhà nước đóng vai trò là người
đi vay, người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh tế và Ngân hàng. Nhà nước ở
đây là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc Nhà nước là người đại diện cho
việc thực hiện các khoản thu ngân sách Nhà nước.
- Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng giữa hai bên (ở hai hay nhiều quốc
gia) có nhu cầu đi vay và cho vay. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua Ngân
hàng theo thoả thuận. Đây là mối quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng,
hai bên cùng có lợi.
Qua các hình thức tín dụng ở trên, chúng ta có thể thấy tín dụng Ngân hàng
là hình thức tín dụng bao trùm và chủ chốt của mỗi quốc gia trên thế giới. Với
chuyên môn và nghiệp vụ tín dụng ngày càng cao, Ngân hàng luôn đáp ứng kịp thời
nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
ii. vai trò của tín dụng Ngân hàng
1. Tín dụng Ngân hàng góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu
thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong mỗi nền kinh tế thường xuyên có những khu vực kinh tế thừa vốn và
thiếu vốn. Vai trò của người dẫn vốn kà huy động để cho vay, do đó tín dụng Ngân
hàng được coi như là một công cụ để giải quyết cung cầu vốn tiền tệ thị trường.
Trong cơ chế thị trường với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, mật độ cạnh tranh rất
cao đặc biệt là trong lĩnh vực Ngân hàng, để tồn tại và phát triển các Ngân hàng
phải nỗ lực thực hiện thật tốt vai trò trung gian tài chính của mình. Các Ngân hàng
phải dùng nhiều phương pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ
chức kinh tế, đồng thời tập trung cho vay có hiệu quả hệ thì mới thu được lợi nhuận
và mới có thể tồn tại được. Vô hình chung tín dụng Ngân hàng đã góp phần tích cực
vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều này vừa làm tăng khả năng
tích luỹ cơ bản của Ngân hàng vừa thúc đẩy quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế.
2. Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà doanh nghiệp luôn có khát vọng tối đa hoá lợi nhuận, muốn đạt
được điều này các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, khoa học công nghệ và
muốn đổi mới thì phải có vốn. Tín dụng Ngân hàng sẽ tài trợ cho nhu cầu đó Song
đổi mới là cả quá trình liên tục, để được Ngân hàng cho vay và được vay vốn nhiều
lần, các chủ thể kinh doanh phải tìm biện pháp để kinh doanh có lãi, tăng vòng quay
vốn, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay đúng hạn. Trong cuộc chạy đua gay go quyết
liệt. Các hoạt động kinh tế xã hội có liên quan tất nhiên sẽ trở lên sôi động hơn.
3. Tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển công ty cổ
phần, một mô hình tổ chức “hữu hiệu” trong nền kinh tế thị trường.
Cổ phần hoá hiện nay đang là xu thế phát triển chung của các công ty trong
nền kinh tế thị trường. Các tập đoàn lớn nhất trên thế giới như Deawoo, Toyota…
đều là những công ty cổ phần và sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần là
không thể tách rời vai trò của tín dụng Ngân hàng do:
Tín dụng Ngân hàng sẽ cung cấp những cổ đông sẵn sàng bỏ vốn mua cổ
phiếu của công ty vượt quá khả năng vốn liếng sẵn có của công ty.
Tín dụng Ngân hàng tạo ra môi trường thuận lợi cho các công ty phát hành,
chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu của các công ty.
Đầu tư vào cổ phiếu của các công ty cũng là một hình thức tín dụng mới của
các Ngân hàng thương mại.
4. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình
mở rộng mối giao lưu kinh tế quốc tế .
Xu thế kinh tế thế giới ngày nay là hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi,
nguồn đầu tư nước ngoài và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai
lĩnh vực hợp tác quốc tế quan trọng và thông dụng. Vốn là nhân tố đầu tiên quan
trọng cho việc thực hiện quá trình này và do đó Ngân hàng sẽ là trợ thủ đắc lực về
vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
5. Tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, tạo điều kiện cho quản lý lưu
thông tiền tệ.
Bằng nghiệp vụ tín dụng của mình, Ngân hàng huy động lượng tiền nhàn rỗi
trong nền kinh tế, thực hiện cho vay đối với các đơn vị kinh tế – kinh doanh mà
không cần phát hành thêm tiền mặt. Hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng thì càng
hạn chế được số lượng tiền trong thanh toán do Ngân hàng dùng biện pháp chuyển
khoản hay thẻ tín dụng… theo đó, phí cho lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế giảm
theo. Hơn nữa thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay, Ngân hàng đã thực
hiện biện pháp nghiệp vụ điều hoà vốn giữa các vùng, ngành, thành phần kinh tế,
góp phần quản lý lưu thông tiền tệ.
6. Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Qua việc cho vay và thu hồi vốn, Ngân hàng có thể kiểm tra, kiểm soát bằng
đồng tiền thông qua trung tâm tín dụng được tiến hành qua các giai đoạn.
Kiểm tra trước khi cho vay.
Kiểm tra việc thực hiện vay vốn trong quá trình sử dụng vốn.
Kiểm tra sau khi vay nhằm mục đích kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng với
mục đích cho vay vốn.
Chương ii: hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
i. Ngân hàng thương mại Việt Nam – những vấn đề cơ bản về hoạt động tín
dụng.
1. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại.
a. Khái niệm
Ngân hàng thương mại được quan niệm là một tổ chức kinh doanh tiền têh
mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và phương tiện
thanh toán. Ngân hàng thương mại hoạt động đa dạng và phong phú như nhận tiền
gửi tiết kiệm cho vay ứng trước, dịch vụ chuyển tiền, các dịch vụ tài chính và tư
vấn dịch vụ ngoại hối.
Ngân hàng thương mại có vị trí kinh tế rất quan trọng bởi vì chúng hoạt động
như các trung gian tài chính giữa người như các trung gian tài chính giữa người gửi
và người vay. Chúng khuyến khích tiết kiện bằng các biện pháp thu hút và huy động
vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên một mạng lưới rộng khắp, đồng
thời đưa vốn vào sử dụng có hiệu quả. Hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh
hưởng rất lớn đến các ngành khác, đến hầu hết mọi người trong xã hội; dù cho họ là
khách gửi tiền, một người cho vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một
doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
Do vậy hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn phải theo một khuôn khổ
chặt chẽ và thường xuyên bị các nhà chức trách kiểm tra, xem xét đảm bảo hiệu quả
cho hoạt động Ngân hàng và ổn định cho nền kinh tế.
b. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng thương mại được coi là tổ chức tài chính trung gian. Nó là
“người dẫn vốn” cho nền kinh tế, từ nơi thiếu sang nơi thừa, giúp người có vốn và
người cầu vốn gặp nhau, thu được lượng tiền nhàn rỗi cho đầu tư và phát triển, giúp
cho việc đầu tư của nhà đầu tư có hiệu quả và giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển được. Đặc biệt là trong tình hình kinh tế nước ta, lượng vốn nhàn rỗi rất
lớn không được đưa vào đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế thì vai trò của Ngân
hàng thương mại lại đặc biệt quan trọng. Hiện nay tỉ trọng kết cấu tài sản nợ của
doanh nghiệp thì vốn vay Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng rất cao.
- Ngân hàng thương mại là thủ quỹ của các doanh nghiệp . Ngân hàng thực
hiện chức năng này thông qua nghiệp vụ thanh toán như thu hộ, chi hội cho doanh
nghiệp chuyển khoản giữa các doanh nghiệp … giúp các doanh nghiệp nâng cao
được vòng quay vốn, tiết kiệm được chi phí trong lưu thông. Ngày nay ở các nước
đang phát triển, các khoản thu chi của cá nhân cũng được thực hiện thông qua hệ
thống Ngân hàng thương mại giúp giảm được chi phí vận chuyển, mẫu bảo quản
tiền mặt.. và cũng giúp Nhà nước quản lý tốt hơn dòng lưu thông, ổn định tình hình
tài chính tiền tệ của đất nước.
- Ngân hàng thương mại có chức năng tạo tiền, chức năng này được thực
hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại trong mối
quan hệ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần
thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính
sách dự trữ quốc gia là đưa một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách
ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm. Các Ngân hàng
thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách này.
2. Các nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất, cho vay có kế hoạch có mục đích và hiệu quả kinh tế.
Đơn vị xin vay phải có kế hoạch và đơn xin vay gửi đến Ngân hàng, trong đó
phải nói rõ số lượng vốn cần vay, thời hạn vay vốn và mục đích sử dụng vốn vay.
Kế hoạch và đơn xin vay của các đơn vị phải xuất phát từ nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh tiêu thụ sản phẩm dựa trên các định mức kinh tế, kỹ thuật lao động tiền
lương… Trên cơ sở kế hoạch xin vay của các đơn vị, Ngân hàng phải có kế hoạch
cho vốn của mình.
Thứ hai, cho vay phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn lẫn lãi. Đơn vị vay vốn
phải trả lại vốn vay cho Ngân hàng bởi vì nguồn vốn đó Ngân hàng cũng phải đi
vay. Đơn vị vay cũng phải trả lợi tức cho Ngân hàng vì đó là một trong những
khoản thu nhập của Ngân hàng, tạo điều kiện cho Ngân hàng tổ chức hạch toán ks
và thực hiện nghĩa vụ của mình với ngân sách Nhà nước.
Thứ ba: cho vay có giá trị hàng hoá tương đương bảo đảm.
Để vay vốn ở Ngân hàng đơn vị vay vốn phải xuất trình các chứng từ hoá
đơn về mua, bán vật tư hàng hoá các hợp đồng kinh tế mua, bán vật tư hàng hoá các
hợp đồng kinh tế về mua, bán vật tư hàng hoá và công tác phục vụ. Trên cơ sở đó
các Ngân hàng sẽ tiến hành xét duyệt cho vay một lượng tiền tương đương với giá
trị vật tư hàng hoá. Với một số đơn vị Ngân hàng yêu cầu phải có thế chấp bằng tài
sản hoặc bằng các chứng từ có giá trị.
Trong quá trình sử dụng vốn vay, các đơn vị vay vốn cũng luôn luôn phải có
đủ giá trị vật tư hàng hoá bảo đảmvà nếu như cac bộ tín dụng kiểm tra thấy giá trị
vật tư hàng hoá nhỏ hơn vốn vay Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ thu hồi vốn trước hạn
đối với phần vốn không có giá trị vật tư hàng hoá bảo đảm. Trường hợp ngược lại
nếu giá trị vật tư hàng hoá lớn hơn vốn vay thì Ngân hàng có thể cho vay thêm nếu
đơn vị yêu cầu.
Nguyên tắc này được áp dụng tốt cả các tổ chức cá nhân, đơn vị kinh doanh
ngoài quốc doanh, còn đối với tổ chức kinh tế quốc doanh khi vay vốn Ngân hàng
không yêu cầu phải có tài sản thế chấp.
3. Tín dụng trung và dài hạn ở các Ngân hàng thương mại và các hính
thức của nó.
Tín dụng trung và dài hạn là một hình thức tín dụng Ngân hàng nhưng chúng
có thời kỳ đáo hạn thanh toán của khoản vay. Nhìn chung các khoản vay trung và
dài hạn có ha đặc trưng cơ bản sau đây.
- Chúng có thời gian đáo hạn trên một năm.
- Chúng được trả dần bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo
quý, tháng, năm…) trong kỳ hạn của khoản vay.
- Chúng thường được bảo đảm bằng tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc
vật tư cầm cố tài sản cố định.
Có nhiều mớ hồ sơ xung quanh định nghĩa về khoản vay trung và dài hạn.
Không phải chuyện bất thường khi thấy một khoản cho vay có kỳ hạn 10 năm lại
được xem là khoản vay trung hạn, nhiều khoản vay cho tiêu dùng cũng có thể coi là
chi vay trung hạn. Thông thường các khoản cho vay cho đầu tư tài trợ các cơ sở
thương mại, công nghiệp, các khoản vay để mua bất động sản, nhà ở thường là
những khoản cho vay trung hạn và dài hạn.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các hình thức cho vay trung
và dài hạn ngày càng phong phú và hấp dẫn. Có thể kể ra một số hình thức cho vay
trung và dài hạn sau đây:
- Cho vay theo dự án: đây là hình thức cho vay chủ yếu của các Ngân hàng
thương mại quốc doanh nước ta hiện nay. Dự án do doanh nghiệp đưa ra sau khi đã
được các cấp , Bộ chủ quản xét duyệt các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội sẽ
được đưa tới Ngân hàng nếu doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tài trợ cho dự án.
Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sau khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính,
cũng như tính chất hợp lý của dự ná về khía cạnh tài chính sẽ quyết định cho vay
hay không cho vay.
- Tín dụng thuê mua: doanh nghiệp được đáp ứng một phần hoặc tất cả nhu
cầu tín dụng trung hạn của họ bằng thuê mua các tài sản cố định. Họ “vay tài sản”
hơn là vay tiền để mua tài sản. Ngân hàng sẽ là người góp phần trực tiếp cho việc
tài trợ vào hoạt động thuê mua, thực hiện dịch vụ thuê mua đối với doanh nghiệp.
Vì vậy có thể xem dịch vụ thuê mua tài sản được Ngân hàng thực hiện như một
hình thức tín dụng trung và dài hạn.
- Cho vay tài trợ và uỷ thác: Ngân hàng nhận được những nguồn tài trợ và uỷ
thác của các tổ chức trong và ngoài nước để tiến hành cho vay tài trợ và uỷ thác của
các dự án phát triển theo mục đích của tổ chức tài trợ theo chương trình tín dụng
bằng nguồn vốn nước ngoài.
iii. thực trạng hoạt động tín dụng ở sở giáo dịch Ngân hàng công thương
Việt Nam.
Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam được thành năm 1988, có trụ
sở tại số 10 Lê Lai trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sở có chức năng
chỉ đạo điều hành tổ chức và hoạt động kinh doanh cảu toàn hệ thống Ngân hàng
Công thương. Ngoài ra Sở còn trực tiếp tham gia kinh doanh, làm đầu mối thanh
toán trong nước và quốc tế. Quan trọng hơn Sở còn là nơi thử nghiệm các cơ chế
chính sách mới để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống.
1. Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương
Việt Nam.
- Với phương châm “coi nguồn vốn trong nước là chủ yếu nguồn vốn nước
ngoài là quan trọng” Sở giao dịch đã chủ động đa dạng hoá, thay đổi cơ cấu nguồn
vốn huy động cho phù hợp với nền kinh tế. Sở đã dùng nhiều biện pháp để thu hút
tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn cả về nội và ngoại tệ từ các thành phần kinh tế cả
trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Thực hiện nhiều biện pháp để thu hút lượng
vốn trôi nổi trong các tầng lớp dân cư, trong các doanh nghiệp, trong các tổ chức
kinh tế xã hội bằng nhiều chính sách và biện pháp huy động da dạng và hấp dẫn.
Nhìn chung, trong những năm qua, Ngân hàng đã thực hiện có hiệu quả một
số giải pháp nhằm ổn định và tăng trưởng hợp lý nguồn vốn huy động, tăng tối