Đề tài Giải pháp phát triển ngành công nghiệp sữa ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO

Ngành công nghiệp chế biến sữa là ngành công nghiệp thực phẩm thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Các sản phẩm của ngành được chế biến từ nguồn nguyên liệu chính là sữa động vật ( sữa bò, sữa dê) . Chính vì thế, sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao thực sự cần thiết cho con người trong suốt quá trình tồn tại từ khi sinh ra, trưởng thành và cho tới khi già yếu. Ngành công nghiệp sữa cũng là một trong số các ngành có sự đòi hỏi cao về công nghiệp chế biến cũng như vè máy móc, thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một sản phẩm sữa có chất lượng và đảm bảo yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp sữa còn có một đặc trưng là nguồn nguyên liệu phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu. Việt nam chúng ta không có được điều kiện khí hậu thuận lợi như ở các nước xứ lạnh khác nên việc chăn nuôi bò sữa gặp khó khăn, đây là nguyên nhân gây ra tình trạng nguồn cung nguyên liệu trong nước bị thiếu hụt trầm trọng. Cho đến cuối năm 2006, nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào trong nước chỉ đảm bảo khoảng 20%, những dự án nuôi bò thất bại đã khiến nguồn cung đầu vào đã ít còn thêm khan hiếm (hai trung tâm nghiên cứu, nuôi bò với quy mô lớn là Ba Vì – Hà Tây, Mộc Châu – Sơn La và một số trung tâm nuôi bò sữa ở ven TP. HCM, các tỉnh lân cận), các nhà máy sữa chỉ còn trông chờ vào 80% nguồn nguyên liệu nhập ngoại từ các nước Úc, Newziland, Mỹ, Ấn Độ và nguồn này hoàn toàn là sữa bột nguyên liệu Như vậy có thể nói, tuy còn nhiều khó khăn những ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng, và là hướng đi có tính chiến lược của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình họi nhập kinh tế quốc tế.

doc23 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5075 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển ngành công nghiệp sữa ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Họ tên : Mai Tuấn Anh Lớp : KTPT47A-QN Đề tài : Giải pháp phát triển ngành công nghiệp sữa ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT Chương I : Một số vấn đề lý luận về sữa và ngành công nghiệp sữa I/ Ngành công nghiệp sữa Việt Nam 1.Đặc trưng của ngành sữa Việt Nam Ngành công nghiệp chế biến sữa là ngành công nghiệp thực phẩm thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Các sản phẩm của ngành được chế biến từ nguồn nguyên liệu chính là sữa động vật ( sữa bò, sữa dê) . Chính vì thế, sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao thực sự cần thiết cho con người trong suốt quá trình tồn tại từ khi sinh ra, trưởng thành và cho tới khi già yếu. Ngành công nghiệp sữa cũng là một trong số các ngành có sự đòi hỏi cao về công nghiệp chế biến cũng như vè máy móc, thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một sản phẩm sữa có chất lượng và đảm bảo yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp sữa còn có một đặc trưng là nguồn nguyên liệu phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu. Việt nam chúng ta không có được điều kiện khí hậu thuận lợi như ở các nước xứ lạnh khác nên việc chăn nuôi bò sữa gặp khó khăn, đây là nguyên nhân gây ra tình trạng nguồn cung nguyên liệu trong nước bị thiếu hụt trầm trọng. Cho đến cuối năm 2006, nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào trong nước chỉ đảm bảo khoảng 20%, những dự án nuôi bò thất bại đã khiến nguồn cung đầu vào đã ít  còn thêm khan hiếm (hai trung tâm nghiên cứu, nuôi bò với quy mô lớn là Ba Vì – Hà Tây, Mộc Châu – Sơn La và một số trung tâm nuôi bò sữa ở ven TP. HCM, các tỉnh lân cận), các nhà máy sữa chỉ còn trông chờ vào 80% nguồn nguyên liệu nhập ngoại từ các nước Úc, Newziland, Mỹ, Ấn Độ… và nguồn này hoàn toàn là sữa bột nguyên liệu Như vậy có thể nói, tuy còn nhiều khó khăn những ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng, và là hướng đi có tính chiến lược của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình họi nhập kinh tế quốc tế. 2.Vai trò của ngành sữa Việt Nam a. Đối với đời sống Đối với đời sống người dân ở các nước phát triển thì các sản phẩm sữa là một trong những sản phẩm thiết yếu nhất không thể thiếu được trong khẩu phần dinh dưỡng hàng ngày, vì thế mức tiêu thụ sữa ở đây là rất lớn.Các sản phẩm chế biến từ sữa là nguồn dinh dưỡng cao cần thiết cho quá trình phát triển của con người từ khi sinh ra cho tới khi lớn lên.Nguồn dinh dưỡng này sẽ cho con người đầy đủ sức khỏe, sự thông minh sáng suốt và cả việc cải tạo giống nòi. Việt Nam dù đã chấm dứt chiến tranh từ lâu, hòa bình đã lập lại nhưng xã hội chúng ta vẫn còn tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân còn thấp ,thể chất người Việt Nam còn yếu, tuổi thọ trung bình chưa cao.Nguyên nhân chính là do vấn đề dinh dưỡng chưa được đảm bảo và chưa được phân bố đều trên mọi nơi. Hiện nay, khi xã hội đã phát triển, đời sống người dân được cải thiện, ngành công nghiệp sữa đã được nhìn nhận với vai trò ngày càng quan trọng trong việc góp phần nâng cao thể lực và tuổi thọ người dân. b. Đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Công nghiệp chế biến sữa là một trong những ngành thuộc công nghiệp chế biến có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế Việt Nam. Phát triển công nghiệp chế biến sữa sẽ góp phần thúc đẩy một số ngành nghề khác phát triển như ngành chăn nuôi, mía đường… thông qua mối liên kết ngược xuôi, gián tiếp. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp sữa nếu phát triển tốt cũng góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động ở khu vực nông thôn. II/ Những cam kết của Việt Nam về ngành sữa trong khuôn khổ WTO Quy định Việc gia nhập WTO sẽ đưa ngành chế biến sữa vào cuộc cạnh tranh mới quyết liệt hơn. Nguyên nhân chủ yếu do nhiều nước trong cộng đồng tổ chức WTO đang sản xuất sữa với giá thành cực rẻ. Đây là những nước được thiên nhiên ưu đãi phù hợp với qui mô chăn nuôi bò sữa công nghiệp, chi phí rất thấp. Họ có những cánh đồng cỏ mênh mông, không phải đầu tư nhiều, việc chăn thả không tốn nhiều công sức và thu hoạch cũng như bảo quản theo hướng công nghiệp. Như vậy, không chỉ chi phí sản xuất thấp, năng suất cao, mà chất lượng sản phẩm của họ đảm bảo tuyệt hảo, nếu không có lộ trình giảm thuế nhập khẩu thỏa đáng thì sản xuất trong nước sẽ khó cạnh tranh 2. Thuế khoán          Cam kết với WTO   TT  Ngành hàng/Mức thuế suất  Thuế suất MFN  Thuế suất khi gia nhập  Thuế suất cuối cùng  Thời gian thực hiện      - Sữa nguyên liệu  20  20  18  2 năm      - Sữa thành phẩm  30  30  25  5 năm            Bảng : Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu sữa Theo lộ trình cam kết với WTO, VN chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu các loại sữa thành phẩm 5% trong vòng năm năm tới, mức thuế còn lại vẫn khá cao với 25%. Riêng nguyên liệu sữa bột, hiện VN phải nhập khẩu khoảng 80%, tuy thuế nhập khẩu sẽ giảm ngay trong hai năm tới nhưng cũng chỉ giảm có 2%, còn 18%. 3. Những chính sách ưu đãi của Nhà nước 3.1.Chính sách khuyến khích đầu tư Khuyến khích đầu tư cho vùng chăn nuôi bò sữa như cho vay ưu đãi, bảo hiểm cho nông dân vùng chăn nuôi bò sữa , lấy lãi công nghiệp bù đắp cho nông nghiệp để khuyến khích chăn nuôi bò sữa.Chủ trang trại được thuê đất lâu dài để trồng cỏ, cho nông dân chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cỏ như miễn thuế đất nông nghiệp từ 5-7 năm. Đối với người lập trang trại nuôi bò, đầu tư không thu hồi 1 bò đực giống, cấp 1 kg hạt cỏ giống cho trang trại quy mô 15 bò cái sinh sản trở lên ; chi phí xây dựng chuồng trại ban đầu được hỗ trợ 100% lãi suất 3 năm đầu. 3.2. Chính sách huy động vốn - Được vay vốn tín dụng đầu tư cho các nhà máy chế biến sữa mới. Các thủ tục vay cần được cải tiến mạnh mẽ hơn để giúp các doanh nghiệp phát huy quyền chủ động, tự chủ về tài chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. - Đầu tư vốn ngân sách cho công tác đào tạo và khuyến nông. 3.3.Chính sách công nghệ - Khuyến khích áp dụng công nghệ mới, tiên tiến vào ngành sữa nhằm mục đích tiến kịp với các nước trong khu vực và thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu. Áp dụng công nghệ mới tiên tiến trong sản xuất sữa, đảm bảo cho quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm được an toàn khi mở rộng công nghệ sản xuất của các nhà máy. - Ưu tiên cho các công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất sữa ( bằng vốn vay ưu đãi, trả chậm hoặc kéo dài thời gian vay với lãi suất thấp, miễn thuế trong thời gian thử nghiệm và bắt đầu áp dụng vào sản xuất…) - Xây dựng mỗi địa phương một cơ sở sản xuất, cung cấp giống F1 và một trang trại kiểu mẫu để làm nơi huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật, tham quan, trình diễn cho người chăn nuôi bò sữa. III/ Sự cần thiết thúc đấy phát triển ngành sữa thời kỳ hậu WTO Do tầm quan trọngcủa ngành sữa đối với kinh tế - xã hội Ngành công nghiệp chế biến sữa là một ngành có vai trò quan trọng trong cuộc sống, nhằm nâng cao khả năng dinh dưỡng cho từng đối tượng, lứa tuổi khác nhau cũng như có tác động mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thúc đấy các nhành khác cùng phát triển theo. Do sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ bên ngoài Giai đoạn hậu WTO có khả năng các công ty nước ngoài sẽ đầu tư nhà máy mới, hoặc gia công ngay tại các nhà máy trong nước, do vậy xu hướng giảm giá sẽ là rất lớn.Trong khi đó, nguồn cung cấp sữa tươi trong nước hiện còn mang tính cá thể của các hộ nông dân , chưa được đầu tư sâu về kỹ thuật ( chăn nuôi, bảo quản, vệ sinh,phòng bệnh, thức ăn…), những yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.Điều này dẫn đến những bất lợi trong cạnh tranh giữa nguồn cung ứng sữa tươi trong nước với nguyên liệu sữa ngoại nhập.Khi đó, áp lực sẽ đè nặng nhà sản xuất nội địa khi người tiêu dùng có thể lựa chọn những sản phẩm ngoại nhập khác hấp dẫn hơn. Chương II : Thực trạng phát triển của ngành sữa Việt Nam giai đoạn 2000-2008 I/ Quy trình hình thành và phát triển ngành sữa Việt Nam Quá trình hình thành và phát triển Việt Nam phát triển ngành sữa từ những năm 1970, nhưng tốc độ phát triển chậm.Tới năm 1980, mức tiêu thụ sữa chỉ đạt ,3kg/người/năm ; đối với thị trường sữa thế giới thì mức tiêu thụ này xem như con số 0.Tuy nhiên, từ 0,5kg/người/năm vào năm 1990 và tăng dần cho đến hiện nay, mức tiêu thụ sữa của người Việt ước đạt 7kg/người/năm, dù tháp hơn so với thế giới và khu vực nhưng lại có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Các điều kiện phát triển ngành sữa Việt Nam Phát triển công nghiệp sữa cần gắn chặt với việc phát triển đàn bò sữa nhằm tăng dần tỷ lệ tự túc nguyên liệu trong nước, giảm tỷ lệ sữa bột nguyên liệu nhập khẩu.Do đó, các cơ sở sản xuất sữa phải có chương trình đầu tư cụ thể vào việc phát triển đàn bò sữa. Cần tiếp tục đổi mới công nghệ và thiết bị ở một số khâu trong dây chuyền sản xuất, đảm bảo tính đồng bộ và trình độ hiện đại của thế giới. Cần coi trọng chất lượng sản phẩm, phấn đấu giảm chi phí sản xuất , không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, cải tiến mẫu mã để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính cạnh tranh trên thị trường. II/ Thực trạng phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam Quy mô , năng lực sản xuất ngành sữa Năng lực sản xuất của toàn ngành năm 2007 đạt 1.056 triệu lít sữa, đạt bình quân đầu người 12,36 lít/năm Tổng mức sản xuất sữa của Việt Nam hiện là 234.000 tấn, mới chỉ đáp ứng 22% nhu cầu trong nước, nhưng đã giảm mức nhập khẩu sản phẩm sữa hàng năm từ 90% xuống còn 78%. 1.1. Quy mô nguồn nguyên liệu tăng Bảng 1. Tổng đàn bò, sản lượng sữa cả nước và các tỉnh có nhiều bò sữa Tỉnh/thành phố  1990  1995  2000  2002  2004  2006  2008   Tổng đàn (con)  1.000  18.700  35.000  55.848  95.794  113.215  107.983   Tổng lượng sữa hàng hoá (tấn/năm)  12.000  17.000  51.400  78.400  151.300  215.940  262.160   Miền Bắc (con)     8.216  24.151  23.335  18.455   Miền Nam (con)     47.632  71.643  89.880  89.528   Tỉnh có nhiều bò sữa (con)          TP. Hồ Chí Minh  8.330  10.420  25.089  36.547  49.190  67.537  69.531   Long An  113  138  877  2.080  3.822  5.765  5.157   Sơn La       3.540  4.496   Bình Dương  200  256  1.820  2.200   3.983  3.112   Hà Tây     2.988   3.981  3.567   Hà Nội       3.199  3.322   Nguồn: Cục Chăn nuôi 2007 Sau 2004 tốc độ tăng đàn chậm do ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ phân tán sang chăn nuôi quy mô lớn hơn và tập trung hơn, đồng thời với việc tăng cường chọn lọc, loại thải những bò chất lượng kém do tốc độ phát triển quá nóng của giai đoạn trước. Năng suất và chất lượng đàn bò sữa không ngừng được cải thiện. Cuối 2006, tổng đàn bò sữa cả nước trên 113,2 ngàn con, bò thuần HF chiếm 15% tổng đàn, số còn lại là bò lai HF với tỷ lệ máu khác nhau. Tổng sản lượng sữa hàng hoá đạt gần 216 ngàn tấn. Năm 2008, tổng đàn bò sữa giảm còn 107,98 ngàn con nhưng tổng sản lượng sữa hàng hoá 262,16 ngàn tấn (Tổng cục thống kê, 2008). Năng suất sữa (kg/chu kì 305 ngày) trung bình cả bò lai và bò thuần HF năm 2008 ước đạt trên dưới 4000kg/chu kì, cao gần gấp hai lần so với năm 1990. Năng suất này vẫn còn thấp hơn nhiều so với Đài Loan (7160kg). 1.2. Quy mô số lượng nhà máy Trước năm 1990, Việt Nam chỉ có một số ít nhà máy chế biến sữa do nhà nước quản lí. Từ năm 1990-2005 cùng với sự tăng trưởng đàn bò sữa, công nghiệp chế biến sữa đã được đầu tư cả về số lượng nhà máy và công nghệ hiện đại. Tính đến năm 2005 đã có 8 Công ty đầu tư vào ngành sữa như Nestle; Dutch Lady; Nuti Food; Lothamilk; Vixumilk; F&N; Hanoimilk; Bình Định, với tổng cộng 17 nhà máy chế biến sữa. Từ năm 2006 đến 2007 có thêm một số công ty mới như công ty sữa Elovi (Thái Nguyên), Quốc tế (Hà Tây cũ), Việt Mỹ (Hưng Yên), Milas (Thanh Hoá), Nghệ An… nâng tổng số lên 22 nhà máy chế biến sữa trên cả nước. Trong số đó, công ty cổ phần sữa Việt nam Vinamilk là lớn nhất với 9 nhà máy với tổng công suất quy ra sữa tươi trên 1,2 tỷ lít/năm (Bảng 2 Năm 2007 công ty Vinamilk thu mua 114 ngàn tấn, Dutch Lady 38 ngàn tấn, Mộc Châu 10 ngàn tấn trong tổng số 234,4 ngàn tấn sữa tươi sản xuất trong nước. Bảng 2. Thống kê các nhà máy sản xuất sữa tại Việt Nam Chỉ tiêu  2004  2005  2006  2007   Công ty Vinamilk       Số lượng nhà máy  7  8  8  9   Tổng công suất quy ra sữa tươi (1000 lít/năm)  736.769  823.991  1.106.768  1.218.315   Tính riêng công suất sữa tươi (1000 lít/năm)  174.049  190.275  235.616  290.172   Các Cty khác *       Số lượng nhà máy (90% sản xuất sữa tươi)  8  9  11  13   Nguồn: Báo cáo của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk, 8-2008 Năng lực sản xuất Năng lực sản xuất của toàn ngành năm 2007 đạt 1.056 triệu lít sữa, đạt bình quân đầu người 12,36 lít/năm Tổng mức sản xuất sữa của Việt Nam hiện là 234.000 tấn, mới chỉ đáp ứng 22% nhu cầu trong nước, nhưng đã giảm mức nhập khẩu sản phẩm sữa hàng năm từ 90% xuống còn 78%. Tổng doanh thu sản phẩm sữa năm 2003 cả nước đạt 603 triệu USD tăng lên 980USD vào năm 2007. Tăng trưởng trung bình hàng năm 12,9%. Trong đó doanh số sản phẩm sữa nước đạt 684 triệu USD, chiếm 69,75% tổng doanh số sản phẩm sữa. Đến năm 2007, tổng sản phẩm sữa toàn quốc quy ra sữa tươi đạt trên 1,056 tỷ lít, mức tiêu dùng sản phẩm sữa bình quân đầu người ước đạt 12,36 lít/năm, so với 35 lít của trung bình châu Á (nguồn Euromonitor International, trích lại của Vinamilk, 2008). Sản lượng sữa sản xuất trong nước hiện mới đáp ứng được 22% nhu cầu sữa tiêu dùng trong nước. Giá trị xuất nhập khẩu Hàng năm Việt Nam đang nhập một lượng lớn sữa (chủ yếu là sữa bột) để đáp ứng nhu cầu chế biến và tiêu thụ trong nước. Năm 2000 giá trị sữa nhập đạt 140,9 triệu USD, năm 2008 tăng lên 535 triệu USD. Trong khi giá trị sữa xuất khẩu giảm, chỉ đạt 76 triệu USD. Nhập siêu sản phẩm sữa năm 2008 là 459 triệu USD (Bảng 3). Bảng 3. Gía trị xuất nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa giai đoạn 2000-2008 (triệu USD) Chỉ tiêu  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2007  2008   Xuất khẩu  80,4  191,5  85,9  67,2  34,3  89,6  35,0  76,0   Nhập khẩu  140,9  246,7  133,2  170,8  201,2  311,2  462,0  535,0   Tỷ lệ xuất/nhập (%)  57,06  77,62  64,49  39,34  17,05  28,79  7,57  14,20   Nguồn: Cục Chăn nuôi, 2006, T ổng cục thống kê 2009. Cơ cấu ngành sữa Cơ cấu sản phẩm ngành sữa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng đủ mọi nhu cầu của từng đối tượng cũng như từng độ tuổi khác nhau.Nếu như, trước đây các sản phẩm từ sữa xuất hiện ít chủng loại như sữa đặc có đường( từ năm 1975-1988), có thêm sản phẩm sữa bột các loại kể từ năm 1989 rồi đến tận năm 1981 mới xuất hiện thêm sữa tươi các loại, năm 2005 ra đời thêm sản phẩm sữa chua thì nay danh mục sản phẩm đã rất đa dạng với hơn 90 chủng loại sản phẩm. Từ các dòng sản phẩm nhắm đến một số khách hàng mục tiêu chuyên biệt như trẻ nhỏ, người lớn và người già cùng với các sản phẩm dành cho hộ gia đình và các cở sở kinh doanh như quán café. Trong nhiều năm vừa qua, tỷ trọng sản phẩm sữa đặc có đường, sữa bột luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu sản phẩm : sữa bột thị phần giá trị chiếm tới 47%, sữa tươi (23%), sữa đặc (7%), người tiêu dùng ngày càng thu hẹp chi tiêu vào những sản phẩm căn bản, thiết yếu.    Bảng 4 : Cơ cấu sản phẩm ngành sữa năm 2008 Thị trường của ngành sữa Sữa và các sản phẩm từ sữa đã gần gũi hơn với người dân, nếu trước những năm 90 chỉ có 1-2 nhà sản xuất, phân phối sữa, chủ yếu là sữa đặc và sữa bột ( nhập ngoại), hiện nay thị trường sữa Việt Nam đã  có gần 20 hãng nội địa và rất nhiều doanh nghiệp phân phối sữa chia nhau một thị trường tiềm năng với 80 triệu dân. Lượng tiêu thụ sữa Việt Nam liên tục tăng mạnh với mức từ 15-20% năm, theo đó trong những năm tới thị trường sữa trong nước sẽ tăng từ 5% đến 10%. Dự báo đến năm 2010 mức tiêu thụ sữa tại thị trường sẽ tăng gấp đôi và tiếp tục tăng gấp đôi vào năm 2020. Có thể nói, thị trường sữa Việt Nam là thị trường “mơ ước” của các nhà kinh doanh sữa, với tốc độ tăng trưởng trung bình 18 - 20%/năm, riêng năm 2005 là 22% với tổng doanh thu khoảng 13.000 tỉ đồng. Sữa và sản phẩm từ sữa những năm qua của các Công ty sữa Việt Nam có thị trường tiêu thụ rất thuận lợi không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài, từng bước khẳng định thương hiệu sữa của Việt Nam tại các thị trường tiềm năng như Irac, Trung Quốc, Cu ba, Myanma… 4.Trình độ công nghệ Trước đây các nhà máy sản xuất sữa đều gặp phải hạn chế khi có công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, thiếu đồng bộ, sản phẩm sản xuất ra chất lượng thấp.Tuy nhiên , hiện nay đặc biệt là từ khi tham gia vào hội nhập, ngành công nghiệp chế biến sữa đã chú trọng đến việc đổi mới máy móc thiết bị, không ngừng tiếp nhận những kỹ thuật mới từ các nước khác nhằm đưa ngành sữa ngày càng phát triển. Phần lớn công nghệ và thiết bị chế biến sữa của các công ty lớn ở Việt Nam đều nhập từ các nước có nền công nghiệp chế biến sữa tiên tiến như Thuỵ Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Mỹ, Đức, Italia, Thuỵ Sỹ, Pháp... Có thể nói ngành sữa Việt Nam đă tiếp cận tới trình độ của thế giới cả về công nghệ, trang thiết bị; đă áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000 Đến nay tất cả các nhà máy trong ngành sữa thuộc công ty sữa Việt Nam ( Vinamilk) quản lý đều có quy trình công nghệ tiên tiến đạt trình độ công nghệ quốc tế, liên tục thay thế bổ sung những phụ tùng thiết bị cho dây chuyền sản xuất cũng như nhập các thiết bị , dây chuyền hiện đại như dây chuyền sản phẩm sữa hội của APV( Đan Mạch, Đức), dây chuyền sữa chua của Ý, thiết bị đóng gói của Tetrapak( Thụy Điển), thiết bị nắp dễ mở của Mỹ, các máy hàn thân lon tiên tiến của Thụy Sĩ… 5.Nguồn nhân lực Ngành công nghiệp sữa là ngành chế biến thực phẩm có trang thiết bị hiện đại, đòi hỏi nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm, nên các cơ sở chế biến rất chú trọng khâu tuyển chọn và sử dụng nhân lực kỹ thuật trong quản lý và thực hành sản xuất.Do đó, các doanh nghiệp sản xuất sữa đều sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao. Điển hình như trình độ đại học trong nhân sự của Vinamilk chiếm tỷ lệ 24,96% ; của Nestle khoảng 50%; của Dutch Lady khoảng 40%. Tỷ lệ công nhân kỹ thuật của Vinamilk là 50,28% ; trong đó số lao động phổ thông chỉ chiếm khoảng 14% tổng số lao động. Nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp sữa ngày càng được nâng cao và được đào tạo chuyên môn , tạo ra một lực lượng công nhân giỏi, cán bộ kỹ thuật và quản lý vững càng trong tiếp thu công nghệ tiên tiến và làm chủ thiết bị hiện đại. 6.Hệ thống phân phối Càng trong thời kỳ hội nhập hiện nay, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp sữa nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp sữa nước ta càng chú trọng đến việc mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm nhằm đưa sản phẩm sữa đến tận tay người tiêu dùng.Hệ thống phân phối từ hệ thống bán lẻ, hệ thống bán hành qua mạng…. đều được khai thác triệt để nhằm nâng cao vị thế và hình ảnh sản phẩm của các công ty sữa tới người tiêu dùng. Điển hình như công ty sữa Vinamilk- một doanh nghiệp hàng đầu. Hiện nay, Vinamilk chiếm khoảng 75% thị phần toàn quốc. Mạng lưới phân phối của Vinamilk rất mạnh trong nước với 220 nhà phân phối và gần 140.000 điểm bán hàng phủ đều 64/64 tỉnh thành.Sản phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang nhiều nước: Mỹ, Canada, Pháp, Nga, CH Séc,Ba Lan, Đức, Trung Quốc, Khu vực Trung Đông, Khu vực Châu Á, Lào, Campuchi ... III/ Đánh giá chung Điểm mạnh và điểm yếu 1.1.Điểm mạnh 1.1.1.Thiết lập được hệ thống phân phối hiệu quả Các sản phẩm sữa đã đến được với nhiều người tiêu dùng từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến vùng núi cao…. thông qua các chương trình hỗ trợ cũng như việc mở rộng các hệ thống phân phối khắp cả nước. Đặc biệt
Luận văn liên quan