Ngân hàng trung ương luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nền kinh tế Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng. Nó là kim chỉ nam, là người dẫn đường cho sự hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng. Ngày nay, khi nền kinh tế nước nhà đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới thì vai trò của Ngân hàng trung ương càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngân hàng trung ương bằng các nghiệp vụ của mình tác động lên lượng cung cầu tiền trong nền kinh tế, và từ đó điều chỉnh lượng tiền tệ trong lưu thông. Trong các nghiệp vụ đó, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ đóng vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên do thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam những năm qua còn đang chập chững phát triển nên nghiệp vụ này chưa thật sự mang lại hiệu quả như mong muốn. Song định hướng trong tương lai gần, nghiệp vụ thị trường mở sẽ là nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng của Ngân hàng trung ương trong hành động quản lý của mình
Với mong muốn đi sâu tìm hiểu về nghiệp vụ này, nhằm tìm ra những thành tựu và những hạn chế mà Ngân hàng trung ương đang gặp phải, từ đó bằng những kiến thức đã được học, đưa ra những giải pháp và kiến nghị để làm cho nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương thực sự đạt được hiệu quả vốn có của nó Em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về nghiệp vụ thị trường mở.
Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
34 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng trung ương luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống nền kinh tế Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng. Nó là kim chỉ nam, là người dẫn đường cho sự hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng. Ngày nay, khi nền kinh tế nước nhà đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới thì vai trò của Ngân hàng trung ương càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngân hàng trung ương bằng các nghiệp vụ của mình tác động lên lượng cung cầu tiền trong nền kinh tế, và từ đó điều chỉnh lượng tiền tệ trong lưu thông. Trong các nghiệp vụ đó, nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ đóng vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên do thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam những năm qua còn đang chập chững phát triển nên nghiệp vụ này chưa thật sự mang lại hiệu quả như mong muốn. Song định hướng trong tương lai gần, nghiệp vụ thị trường mở sẽ là nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng của Ngân hàng trung ương trong hành động quản lý của mình
Với mong muốn đi sâu tìm hiểu về nghiệp vụ này, nhằm tìm ra những thành tựu và những hạn chế mà Ngân hàng trung ương đang gặp phải, từ đó bằng những kiến thức đã được học, đưa ra những giải pháp và kiến nghị để làm cho nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương thực sự đạt được hiệu quả vốn có của nó Em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng trung ương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về nghiệp vụ thị trường mở.
Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
Khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM).
Sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1920-1921, cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trước đó của Fed chủ yếu từ nghiệp vụ chiết khấu, nhưng do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm lượng tiền vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu, để tiếp tục hoạt động của mình Fed buôn chứng khoán để kiếm lãi. Trong khi thực hiện mua bán chứng khoán, bỗng các nhà điều hành thị trường thấy rằng dự trữ trong các ngân hàng tăng lên, các khoản vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả này đã cho fed một bài học bổ ích từ thực tế là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền tệnhạy bén nhất. Thuật ngữ thị trường mở (TTM) lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm 20 của thế kỷ 20 khi nghiệp vụ này bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụ của ngân hàng trưng ương Mỹ về thị trường mở so với các công cụ khác có phạm vi rộng nhất vì nước này có thị trường giấy tờ có giá lớn nhất.Ở Anh nghiệp vụ này đóng vai trò quan trọng từ những năm 30. Còn ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách TTM từ những năm 1933.
Vậy nghiệp vụ thị trường mở là gì?. Mặ dù khái niệm TTM đã được chúng ta tiếp cận từ thời kỳ đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay, song để trả lời câu hỏi này vẫn không ít người mơ hồ. Chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề này từ những quan điểm sau:
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM” là việc NHTW mua bán trái phiếu dài hạn của chính phủ trên thị trường trái phiếu có đảm bảo để làm tang hoặc giảm mức cho vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị trường tín phiếu, nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “NVTTM là việc mua bán các laọi chứng khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi Fed”
Theo tài liệu của trường đại học Victorya Newrealand: “ Một VNTTM xảy ra khi NHTW thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường mở”.
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Tùy vào mỗi nước mà các loại chứng khoánn được giao dịch là khác nhau về loại hình và thời hạn, đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm các tổ chức tín dụng và phi tín dụng, doanh nghiệp, cá nhân…Còn ở các nước NVTTM còn chưa phát triển thì chỉ có các tổ chức tín dụng tham gia ( ví dụ Việt Nam).TÙy thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính phủ sẽ quy định khác nhau về hàng hóa, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của TTM, chính sự khác nhau này tạo nên sự khác nhau về quan niệm TTM ở mỗi nước.
Đối với Việt Nam, để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành CSTT, TTM ở Việt Nam đã chính thức đi vào haọt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTW theo phương pháp gián tiếp phù hợp với thong lệ quốc tế và xu hướng phát triển của đất nước. Do vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội dung hoạt động
Khái niệm TTM theo Việt Nam như sau: “ NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm thay đổi cơ số tiền tệ, trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất ngắn hạn” ( Nghiệp vụ NHTW- Đại học Kinh tế Quốc Dân)
Những nội dung chính trong NVTTM.
Hàng hóa của NVTTM.
Thông thường, Ngân hàng Trung ương các nước sử dụng nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau đế giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Đó là: trái phiếu, tín phiếu kho bạc (gọi chung là chứng khoán kho bạc ), tín phiếu Ngân hàng Trung ương, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu thời hạn ngắn, chấp nhận (hối phiếu ) của các ngân hàng; repos (hợp đồng mua lại ).
2.1.1 Tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường dưới 12 tháng.
Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trong TTM có một số ưu điểm nhất định. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và được thể hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ giảm rủi ro của việc phân tách thị trường.
2.1.2 Tín phiếu ngân hàng Trung ương.
Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho TTM. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng hoá trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW và tín phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín phiếu kho bạc và thị trường tín phiếu NHTW, làm cho mục đích phát hành các GTCG này không đạt được và có thể làm giảm hiệu quả tác động của 2 loại hàng hoá này.
2.1.3 Trái phiếu Chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch TTM ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
2.1.4 Trái phiếu Chính quyền địa phương.
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ.
2.1.5 Chứng chỉ tiền gửi.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng thường là ngắn hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.
Chủ thể tham gia TTM.
2.2.1 Ngân hàng Trung ương.
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại TTM và tần suất sử dụng TTM. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu xác định của nó.
2.2.2 Các đối tác của ngân hàng Trung ương.
Các ngân hàng thương mại.
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia TTM của NHTW và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch TTM có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia TTM. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm … coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG.
Các nhà giao dịch sơ cấp.
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào TTM với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.
Hình thức giao dịch trong TTM
Giao dịch song phương: Ngân hàng Trung ương giao dịch trực tiếp với người mua, bán thực hiện mua hoặc bán hẳn chứng từ có giá.
Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán, qua các đại lý chứng khoán mà Ngân hàng Trung ương tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán.
Giao dịch qua đấu thầu: Đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
Đấu thầu khối lượng.
Ngân hàng Trung ương công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện, Ngân hàng Trung ương công bố điều kiện đặt thầu để tổ chức mua bán phải chấp hành, các Tổ chức Tín dụng cần mua hoặc bán tiến hành nộp thầu theo qui định. Sau khi mở thầu Ngân hàng Trung ương sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu. Sau khi trúng thầu các ngân hàng thực hiện nhận tín phiếu kho bạc và thạn toán tiền theo qui định,
Đấu thầu lãi suất.
Theo cách đấu thầu lãi suất thì các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. Ngân hàng Trung ương sẽ quan tâm tới lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao tới lãi suất thấp cho đến khi nào đạt được lượng tiền mà Ngân hàng Trung ương cần cung ứng vào lưu thông.
Nguyên tắc khi xét thầu theo lãi suất nếu Ngân hàng Trung ương bán thì sẽ xét đạt thầu từ lãi suất thấp đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần bán. Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua thì xét đạt thầu từ lãi suất cao đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần mua. Phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với chính sách tiền tệ.
Tác động của TTM đến lượng cung tiền.
Cơ số tiền tệ và lượng cung tiền.
Nghiệp vụ TTM được coi là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là tác nhân chính tác động đến lượng tiền cung ứng. Việc NHTW mua trên TTM làm tang cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Vậy để hiểu rõ cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM ta cần làm rõ khái niệm về cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng
Cơ số tiền tệ ( hay lượng tiền cơ bản MB- Money base ) bao gồm lượng tiền trong lưu thông (C) cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng (R ) ( bao gồm cả tiền dự trữ bắt buộc mà các NHTM gửi tại NHTW (RR )và dự trữ vượt quá nằm trong két của các NHTM ( ER )
MB = C + R (1)
R = RR + ER (2 )
Lượng tiền cung ứng ( hay mức cung tiền ( MS ) là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM (D )
Như vậy lượng tiền cung ứng lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ bản bởi hoạt động “ tạo ra tiền” của các NHTM
Cơ chế tác động của NVTTM đến lượng cung tiền.
Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia TTM) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác tham gia TTM).
Sơ đồ 1 Cơ chế tác động của TTM tới dự trữ ngân hàng.
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
Về mặt giá - Tác động qua lãi suất.
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Sơ đồ 2. Cơ chế tác động của TTM qua lãi suất
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM
Tổng quát nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Sơ đồ hoạt động nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam
Nhiệm vụ của từng bộ phận
Ban điều hành NVTTM: Điều hành hoạt động của thị trường, tiếp nhận thông tin từ bộ phận quản lý vốn khả dụng, trình thống đốc NHNN về mức vốn, nguồn vốn và khối lượng tín phiếu cần mua hoặc bán, xử lý phát sinh trong quá trình thực hiện NVTTM, tổn hợp phân tích diễn biến của thị trường.
Bộ phận quản lý vốn khả dụng: Quản lý, theo dõi, cung cấp dự đoán vốn khả dụng theo định kỳ của ngân hàng, kiến nghị với ban điều hành thị trường mở về khối lượng giấy tờ có giá ngắn hạn mà NHNN cần mua bán trong kỳ
Bộ phận NVTTM: Căn cứ vào thông báo của ban điều hành nghiệp vụ TTM để thực hiện NVTTM, thông báo mua hoặc bán tín phiếu, tiếp nhận việc đăg ký mua bán trong các thành viên, tổ chức đấu thầu theo 2 phương pháp ( lãi suất và khối lượng), tham mưu cho ban điều hành TTM
Bộ phận đăng ký tín phiếu: Thực hiện nghiệp vụ đăng ký tín phiếu của các đơn vị thành viên tham gia dự thầu, bảo quản tín phiếu đã đăng ký tham gia trên thị trường mở của các thành viên, xác nhận, phong tỏa, chuyển quyền sở hữu tín phiếu khi thực hiện NVTTM
Bộ phận thanh toán: Thực hiện việc ký quỹ đấu thầu của các thành viên, thực hiện hạch toán kế toán và thanh toán theo kết quả của hoạt động TTM.
Cái nhìn chung nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Khuôn khổ pháp lý: Hàng loạt các văn bản về các vấn đề liên quan tới TTM đã được ban hành trong năm 2000 như Quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Quy trình TTM, quy định đăng ký giấy tờ có giá, Quy chế quản lý vốn khả dụng, quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHNN.
Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ: Thành viên tham gia vào TTM phải là các TCTD đảm bảo đầy đủ một số điều kiện như phải có tài khoản tiền gửi tại NHNN, phải có đầy đủ phương tiện cho hoạt động TTM như mạng máy tính, fax, điện thoại … phải đang ký với NHNN để được hoạt động TTM.
Hàng hoá trên thị trường: hiện nay quá thiếu thốn cả về chủng loại lẫn khối lượng. Theo quy định, chỉ có tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác ( thống đốc sẽ quyết định trong từng thời kỳ). Tuy nhiên, trên trực tế chỉ có hai loại hàng hoá là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Hàng hoá cần phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau : có thể giao dịch được, phải là các giấy tờ có giá ngắn hạn, phát hành bằng đồng Việt Nam, phải được đăng ký tại NHNN.
Nếu hình thức giao dịch là mua bán hẳn t