Đề tài Giải quyết tình huống tố tụng hình sự

Trong quá trình tiến hành tố tụng, bị can C trên 16 tuổi và chưa đủ 18 tuổi, do đó, theo điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS, C phải có người bào chữa. Điểm b khoản 2 Điều 57: “2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên ” Tuy nhiên việc bị can C không có người bào chữa trong giai đoạn điều tra có thể do một trong hai khả năng sau: Trường hợp 1: Cơ quan điều tra không yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C. Theo khoản 2 điều 57 BLTTHS thì trường hợp C hoặc người đại diện hợp pháp của C không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm yêu cầu Đoàn luật sự phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C. Việc Cơ quan điều tra không thực hiện đúng quy định nêu trên khi điều tra C (chưa thành niên) không có người bào chữa trong khi phải có người bào chữa đã vi phạm quyền bào chữa của C, có thể ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án – đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS, Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3908 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải quyết tình huống tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG. 1. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán phát hiện trong giai đoạn điều tra bị can C không có người bào chữa. Thẩm phán phải giải quyết như thế nào? Tại sao? Trong quá trình tiến hành tố tụng, bị can C trên 16 tuổi và chưa đủ 18 tuổi, do đó, theo điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS, C phải có người bào chữa. Điểm b khoản 2 Điều 57: “2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên …” Tuy nhiên việc bị can C không có người bào chữa trong giai đoạn điều tra có thể do một trong hai khả năng sau: Trường hợp 1: Cơ quan điều tra không yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C. Theo khoản 2 điều 57 BLTTHS thì trường hợp C hoặc người đại diện hợp pháp của C không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra có trách nhiệm yêu cầu Đoàn luật sự phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C. Việc Cơ quan điều tra không thực hiện đúng quy định nêu trên khi điều tra C (chưa thành niên) không có người bào chữa trong khi phải có người bào chữa đã vi phạm quyền bào chữa của C, có thể ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án – đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS, Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điểm c khoản 1 Điều 179: “1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây: c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”. Trường hợp 2: Cơ quan điều tra đã yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C, nhưng C và người đại diện hợp pháp của C từ chối người bào chữa. Việc có người bào chữa là quyền của bị can, bị cáo. Do vậy trong trường hợp đã được cử người bào chữa mà bị can, bị cáo và người đại diện từ chối thì phải thực hiện theo ý muốn của họ, vì đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của họ. Cơ quan điều tra đã thực hiện đúng trách nhiệm của mình nên không coi là vi phạm thủ tục tố tụng. Căn cứ vào điểm a khoản 2 điều 176 BLTTHS thì Thẩm phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. 2. Khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán còn phát hiện trước khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B đã cùng D thực hiện hành vi lừa đaỏ chiếm đoạt tài sản của người khác. Thẩm phán giải quyết như thế nào? Tại sao? Căn cứ theo Điều 179 Bộ Luật Tố tụng Hình sự thì: “1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây: b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; 2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.” Như vậy theo Điều luật nêu trên ta nhận thấy khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm phán phát hiện trước hiện trước khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B đã cùng D thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Thẩm phán sẽ ra quyết định trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án. 3. Giả sử trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, C yêu cầu thay đổi Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa với lí do Thẩm phán là người thân thích của A. Tòa án giải quyết yêu cầu này như thế nào? Tại sao? Theo quy định tại Điều 46 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm phán, hội thẩm phải từ chối tham gia hoặc bị thay đổi trong các trường hợp: “ 1.a. thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này”. Theo đó, các trường hợp đó là: “1. Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; 2. Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó; 3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”. Như vậy, thẩm phán- người tham gia tố tụng có thể bị thay đổi trong trường hợp người này đồng thời là người thân thích của bị can, bị cáo trong vụ án. Theo quy định tại điều 43, những người có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng là: “1. Kiểm sát viên; 2. Bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; 3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự”. Vậy, C là bị cáo, có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng ( trường hợp này C yêu cầu thay đổi thẩm phán được phân công là chủ tọa phiên tòa). Quyền đề nghị thay đổi người tham gia tiến hành tố tụng có thể được thực hiện ở bất kì thời điểm nào trong tố tụng hình sự trước khi Hội đồng xét xử bắt đầu xét hỏi tại phiên tòa. Trong trường hợp trên, C đã yêu cầu thay đổi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa trước khi mở phiên tòa là đúng quy định pháp luật. Xét thấy, về mặt chủ thể: C là bị cáo, chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi thẩm phán phiên tòa; về thời gian, C thực hiện quyền yêu cầu của mình trước khi mở phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 43 BLTTHS; về mặt nội dung: C yêu cầu thay đổi thẩm phán với lý do Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa là người thân thích của A- người bị hại trong vụ án là phù hợp với quy định tại điều 43 BLTTHS. Như vậy, yêu cầu thay đổi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa của C là đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, Tòa án cần xác minh lý do C yêu cầu thay đổi thẩm phán (là người thân thích của A) có thật hay không. Nếu lý do C đưa ra không có căn cứ thực tế thì tòa án sẽ bác yêu cầu thay đổi thẩm phán của C. Nếu sau khi xác minh thấy yêu cầu của C là có căn cứ thực tế thì theo khoản 2 Điều 46 BLTTHS: chánh án tòa án cùng cấp sẽ quyết định việc thay đổi thẩm phán trước khi mở phiên tòa nếu thẩm phán bị thay đổi không phải là chánh án; hoặc nếu thẩm phán bị thay đổi là chánh án tòa án thì sẽ do chánh án tòa án cấp trên trực tiếp quyết định 4. Giả sử trong giai đoạn điều tra, B và C đều nhờ người bào chữa nhưng đến ngày mở phiên tòa, chỉ có người bào chữa của B có mặt còn người bào chữa cho C vắng mặt và cũng không gửi bản bào chữa cho Tòa án. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết thế nào? Tại sao? Theo dữ kiện đề bài đưa ra, B và C đều là người chưa thành niên (đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuồi). Đến ngày mở phiên tòa, người bào chữa của C vắng mặt và cũng không gửi bản bào chữa tới Tòa. Về nguyên tắc, điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS quy định rằng, với bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì buộc phải có người bào chữa. Khoản 2 Điều 190 BLTTHS lại quy định: Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS mà người bào chữa vắng mặt thì HĐXX phải hoãn phiên tòa. Như vậy, tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên mà người bào chữa vắng mặt, dù có gửi hay không gửi bản bào chữa cho Tòa án thì HĐXX phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp này nếu C và người đại diện hợp pháp của C từ chối người bào chữa khác và khẳng định mình có thể tự bào chữa được thì Tòa án vẫn xét xử vụ án theo thủ tục chung. Bởi theo quy định tại khoản 2 Điều 27 thì trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, bản thân họ và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Việc từ chối người bào chữa phải được lập thành văn bản. Như vậy, trong tình huống trên, HĐXX phải hoãn phiên tòa nhưng nếu C và người đại diện hợp pháp khẳng định có thể tự bào chữa được thì HĐXX vẫn phải tiến hành phiên tòa theo thủ tục chung. 5. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án nhận được đơn của bà L là mẹ của A xin không đưa B và C ra xét xử. Tòa án phải giải quyết thế nào? Tại sao? Theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, về mặt nguyên tắc, khi đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm thì các cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các hoạt động điều tra. Tuy nhiên, do có yêu cầu về sự hài hòa giữa mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và lợi ích, nguyện vọng của người bị hại, cho nên BLTTHS  2003 quy định một số tội phạm cụ thể chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Đó là các hành vi tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 BLHS (khoản 1 Điều 105 BLTTHS). Trong tình huống này, A là người chưa thành niên (17 tuổi), do đó ông H là người đại diện hợp pháp của A (theo Điều 141 BLDS quy định: người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ đối với con chưa thành niên) gửi đơn yêu cầu khởi tố vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS,  người đã yêu cầu khởi tố vụ án có quyền rút đơn yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố chính là người đã yêu cầu khởi tố vụ án. Mà A lại là người chưa thành niên, việc yêu cầu khởi tố là do người đại diện hợp pháp của A thực hiện, do đó chỉ có người đại diện hợp pháp đó mới có quyền rút yêu cầu khởi tố. Điều đó có nghĩa, bà L cũng là người đại diện của A nhưng bà không phải là người yêu cầu khởi tố vụ án nên bà không có quyền rút yêu cầu khởi tố. Vậy, đơn xin không đưa B và C ra xét xử của bà L không được Tòa án chấp nhận . Tòa án vẫn tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án đó. 6. Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, người bào chữa của B xuất trình một tài liệu khẳng định khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B chưa đủ 16 tuổi. Tài liệu này chưa thể xác minh tại phiên tòa được. Hội đồng xét xử sơ thẩm phải giải quyết như thế nào? Tại sao? Theo khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung trong các trường hợp như: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được (Điểm a, Khoản 1 Điều 179 BLTTHS). Chứng cứ quan trọng đối với vụ án có thể hiểu là những chứng cứ không thể thiếu  được trong quá trình giải quyết vụ án, là chứng cứ làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại khoản 2 Điều 63 BLTTHS, đó là “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không…” và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A mà B chưa đủ 16 tuổi thì điều này có thể làm xoay chuyển tình thế của vụ án. Theo Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do đó nếu B chưa đủ 16 tuổi thì B không phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều  104 BLHS (bởi đây là tội ít nghiêm trọng). Vì vậy tài liệu này rất quan trọng đối với B, nó chứng minh B có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Mà tài liệu này lại không thể xác minh ngay tại phiên tòa được. Chính vì vậy, trong trường hợp này, HĐXX sơ thẩm quyết định hoãn phiên tòa xét xử B và yêu cầu điều tra bổ sung đối với B (vẫn tiến hành xét xử đối với C). Nếu kết quả điều tra bổ sung chứng tỏ B chưa đủ 16 tuổi thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án đối với B (theo quy định tại Điều 180 và Khoản 3 Điều 107 BLTTHS ). Nếu kết quả điều tra bổ sung chứng tỏ tài liệu đưa ra tại phiên tòa là không chính xác thì sẽ mở phiên tòa xét xử đối với B. Nếu Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì chuyển hồ sơ lại cho tòa án kèm theo văn bản nói rõ lý do không điều tra bổ sung được. Khi nhận lại hồ sơ, trong thời hạn 15 ngày, tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử . 7. Giả sử Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 104 BLHS tuyên phạt tù các bị cáo. Ông H kháng cáo yêu cầu áp dụng khung hình phạt nặng hơn đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm phải giải quyết thế nào và tại sao: a. Có căn cứ chuyển khung hình phạt nặng hơn; Khi có căn cứ chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn thì theo Khoản 3 điều 249 BLTTHS : Trong trường hợp người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản  bộ luật hình sự về tội nặng hơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể tăng hình phạt đối với B và C . Mặt khác, A 17 tuổi nên ông H sẽ là người đại diện hợp pháp của A, mà theo điều 231 Bộ Luật TTHS thì ông H là một trong những chủ thể có quyền kháng cáo, do đó việc ông H kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt nặng hơn là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi HĐXX phúc thẩm sửa bản án phải chú ý không được vượt quá nội dung yêu cầu kháng cáo. Việc sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo dẫn đến việc làm xấu đi tình trạng của bị cáo do đó có sự quy định chặt chẽ về hướng kháng nghị, kháng cáo và cả chủ thể kháng nghị, kháng cáo để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo. b. Không có căn cứ để chuyển khung hình phạt nặng hơn nhưng có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt. Theo khoản 2 Điều 249 BLTTHS: “Nếu có căn cứ, Tòa án phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. Như vậy, trong trường hợp này Tòa án phúc thẩm có thể giảm nhẹ hình phạt cho B và C nếu có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLTTHS : “Giảm hình phạt cho bị cáo” khi có căn cứ mà không cần các điều kiện nào khác. Có thể thấy khi sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo thì tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc bởi phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. Việc sửa án theo hướng giảm nhẹ được tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị theo hướng giảm nhẹ hoặc tăng nặng, kể cả khi tất cả các kháng cáo, kháng nghị đều theo hướng tăng nặng. Điều này nhằm đảm bảo thực hiện các nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng như bảo vệ quyền con người,một người chỉ phải chịu hình phạt tương ứng với những hành vi phạm tội của mình. Có như vậy việc quy định hình phạt mới đạt được mục đích giáo dục và phòng ngừa. 8. Giả sử tại phiên tòa phúc thẩm, C cung cấp tài liệu xác định Thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại. Hội đồng xét xử phải giải quyết thế nào nếu chứng minh tài liệu mà C cung cấp là chính xác. Trong trường hợp này, khi những tài liệu mà C cung cấp được xác minh là chính xác thì Hội đồng xét xử sẽ phải ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại. Căn cứ cho điều này được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 250 BLTTHS : “Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau đây: a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng;” Theo tài liệu đã được chứng minh là chính xác của C thì Thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại. Theo đó, Thẩm phán tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm của vụ án này đã vi phạm Điểm a Khoản 1 Điều 46 BLTTHS: “1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu: a. Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;” Trong khi đó, Khoản 1 Điều 42 BLTTHS có quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng nếu: “1. Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;” Theo đó, việc này đã vi phạm Điểm a, Khoản 2, Điều 250 BLTTHS vì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, vi phạm nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng như đã đề cập tại Điều 42 và Điều 46 BLTTHS. Việc làm này sẽ dẫn tới việc không đảm bảo cho vụ án được tiến hành một cách khách quan, chính xác và đồng thời khiến mất lòng tin của nhân dân vào sự công minh của Tòa án. Về khái niệm “người thân thích” trong Điều 42 trên thì đã được Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phám Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS giải thích và làm rõ. Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ căn cứ vào đó để xác định. Như vậy, để khắc phục tình trạng này thì cụ thể trong trường hợp này, Hội đồng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm phải xét xử lại với thành phần Hội đồng xét xử mới ( cụ thể ở đây là thay đổi Thẩm phán ). Khi hủy bản án sơ thẩm Hội đồng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung. 9. Giả sử chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm, ngoài ra không còn có kháng cáo, kháng nghị nào khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, C rút toàn bộ kháng cáo của mình. Tòa án cấp phúc thẩm phải giải quyết như thế nào nếu thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ? Tại sao? Trong trường hợp, chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm và không còn kháng cáo, kháng nghị nào khác mà tại phiên tòa C lại rút toàn bộ kháng cáo của mình – trong vụ án không còn có kháng nghị, kháng cáo thì theo khoản 2 Điều 238 quy định: “Trong trường hợp rút toàn bộ kháng nghị, kháng cáo tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ”. Nhưng tình huống lại đặt ra là, tòa án cấp phúc thẩm thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ. Vậy, toà án cấp phúc thẩm phải giải quyết như thế nào? Ngoài kháng cáo của C thì không còn kháng cáo, kháng nghị nào khác thì việc C rút kháng cáo toàn bộ của mình đồng nghĩa với việc, vụ án không còn có một kháng nghị, kháng cáo nào nữa để tòa án phúc thẩm có thể xét xử, bởi xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự và nó chỉ được thực hiện khi bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Như vậy, như trong tình huống này, mặc dù tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ nhưng vì không có kháng cáo hay kháng nghị nào nên tòa án cũng không thể đưa ra xét xử được. Ngoài ra pháp luật còn quy định, khi có kháng cáo, kháng nghị mà những kháng cáo, kháng nghị này lại theo hướng có lợi cho bị cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không được phép sửa bản án theo hướng tăng nặng (quy định này nhằm để bị cáo yên tâm thực hiện quyền kháng cáo). Và để giải quyết tình huống này, tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm để bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau đó có thể báo cáo và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp Giám đốc thẩm để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm xét lại bản án, ra quyết định hủy bản án để xét xử sơ thẩm. (Thông tư số 01/TTLT ngày 08/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao). 10. Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị, tòa án có thẩm quyền xét lại bản án đó có thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C hay không nếu thấy yêu cầu của kháng nghị là có căn cứ? tại sao? Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị thì có thể có một phiên tòa giám đốc thẩm hoặc một phiên tòa tái thẩm. Nếu bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiệm trọng trong việc xử lý vụ án thì theo Điều 272 quy định về tính chất của giám đốc thẩm sẽ diễn ra một ph
Luận văn liên quan