Trong bộmáy nhà nước nói riêng và trong hệthống chính trịnói
chung ởViệt Nam hiện nay, Tòa án nhân dân (TAND) có một vịtrí đặc biệt
quan trọng. Với những đặc trưng của hoạt động xét xử, hệthống tòa án có khả
năng đem đến cho các bên tranh tụng sựcông bằng, góp phần thiết lập trật tự
xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của hệthống tòa án cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ
nếu những nguyên tắc sống còn của hoạt động tốtụng không được bảo đảm.
Khi đó, không những quyền lợi chính đáng của các đương sựkhông được bảo
đảm, mà uy tín của Nhà nước cũng bịgiảm sút.
Trước tình hình trên, tại Hội nghịBan Chấp hành Trung ương lần thứ
ba (khóa VIII), Đảng đã đặt vấn đềtiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của
Quốc hội, trong đó có giám sát hoạt động xét xửcủa TAND. Tại kỳhọp thứ
ba, Quốc hội khóa XI năm 2003, Quốc hội đã thông qua Luật hoạt động giám
sát. Đây là đạo luật rất quan trọng, thểchếhóa đường lối của Đảng và cụthể
hóa các quy định của Hiến pháp, các luật vềtổchức bộmáy nhà nước, về
trình tự, thủtục thẩm quyền giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt động
xét xửcủa hệthống tòa án nói riêng. Trên cơsở đường lối chủtrương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, những năm qua công tác giám
sát của Quốc hội đối với công tác xét xửcủa Tòa án đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Thông qua hoạt động giám sát giúp cho hoạt động xét xử
của Tòa án, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hơn, tránh được những oan,
sai trong xét xử. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động
giám sát của Quốc hội đối với công tác xét xửcủa TAND cũng còn nhiều bất
cập như: hệthống pháp luật điều chỉnh quan hệnày còn thiếu tính cụthể.
Công tác giám sát còn mang tính thời điểm, không thường xuyên. Kiến thức
pháp luật nói chung và kiến thức pháp luật tốtụng nói riêng của các đại biểu
2
đi giám sát còn hạn chếvà không đồng đều Tất cảnhững điều đó ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng đối với công tác giám sát của Quốc
hội đối với hoạt động xét xửcủa TAND. Vì lẽ đó việc nghiên cứu một cách
tương đối toàn diện có hệthống vềgiám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xửcủa TAND ởViệt Nam là yêu cầu bức xúc, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
97 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2346 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước nói riêng và trong hệ thống chính trị nói
chung ở Việt Nam hiện nay, Tòa án nhân dân (TAND) có một vị trí đặc biệt
quan trọng. Với những đặc trưng của hoạt động xét xử, hệ thống tòa án có khả
năng đem đến cho các bên tranh tụng sự công bằng, góp phần thiết lập trật tự
xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống tòa án cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ
nếu những nguyên tắc sống còn của hoạt động tố tụng không được bảo đảm.
Khi đó, không những quyền lợi chính đáng của các đương sự không được bảo
đảm, mà uy tín của Nhà nước cũng bị giảm sút.
Trước tình hình trên, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
ba (khóa VIII), Đảng đã đặt vấn đề tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của
Quốc hội, trong đó có giám sát hoạt động xét xử của TAND. Tại kỳ họp thứ
ba, Quốc hội khóa XI năm 2003, Quốc hội đã thông qua Luật hoạt động giám
sát. Đây là đạo luật rất quan trọng, thể chế hóa đường lối của Đảng và cụ thể
hóa các quy định của Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về
trình tự, thủ tục thẩm quyền giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt động
xét xử của hệ thống tòa án nói riêng. Trên cơ sở đường lối chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, những năm qua công tác giám
sát của Quốc hội đối với công tác xét xử của Tòa án đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Thông qua hoạt động giám sát giúp cho hoạt động xét xử
của Tòa án, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hơn, tránh được những oan,
sai trong xét xử... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động
giám sát của Quốc hội đối với công tác xét xử của TAND cũng còn nhiều bất
cập như: hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ này còn thiếu tính cụ thể.
Công tác giám sát còn mang tính thời điểm, không thường xuyên. Kiến thức
pháp luật nói chung và kiến thức pháp luật tố tụng nói riêng của các đại biểu
2
đi giám sát còn hạn chế và không đồng đều… Tất cả những điều đó ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng đối với công tác giám sát của Quốc
hội đối với hoạt động xét xử của TAND. Vì lẽ đó việc nghiên cứu một cách
tương đối toàn diện có hệ thống về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xử của TAND ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của các hoạt động của Quốc
hội, trong những năm gần đây, về hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt
động giám sát của Quốc hội nói riêng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà luật học, chính trị học, xã hội
học. Qua nghiên cứu tài liệu hiện hành và công trình khoa học đã được công
bố cho thấy hoạt động giám sát của Quốc hội được nghiên cứu dưới nhiều góc
độ khác nhau. Điều đó được thể hiện qua các nhóm vấn đề:
Nhóm thứ nhất, là nghiên cứu hoạt động giám sát của Quốc hội nói
chung. Nhóm này đề cập tới những vấn đề lý luận chung của giám sát, như
khái niệm, bản chất, hình thức, nội dung…được thể hiện qua các công trình
nghiên cứu sau: tác phẩm: "Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội" của Tiến
sĩ Phạm Văn Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trong tác phẩm này,
tác giả Phạm Văn Kỳ đã tập trung làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm quyền
giám sát tối cao của Quốc hội, đối tượng của quyền giám sát tối cao, các
phương thức giám sát của hoạt động giám sát, cũng như thực trạng của hoạt
động giám sát này, trên cơ sở đó, tác giả đã có những đề xuất tương đối sát
hợp… Bên cạnh đó phải kể đến nhiều công trình khác như: Đề tài "Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - những khía cạnh pháp lý theo
hiến pháp và luật tổ chức Quốc hội" PGS,TS Nguyễn Đăng Dung chủ trì; Đề
tài "Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay" do Viện
Nhà nước và Pháp luật, thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ
3
trì. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đáng chú ý như "Hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo đảm quyền con người ở nước ta" của TS. Lê Minh Thông, đặt vấn đề Quốc
hội cần thiết phải thành lập một ủy ban chuyên trách; GS.TSKH Đào Trí Úc:
"Về chức năng kinh tế, xã hội của nhà nước ta và những cơ sở hiến định của
cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước", đã đề cập vấn đề nghiên cứu, xem xét
việc thành lập cơ quan giám sát chuyên trách thuộc Quốc hội; bài viết "Giám
sát thực hiện quyền lực nhà nước" của tác giả Võ Khánh Vinh...
Nhóm thứ hai, nghiên cứu hoạt động giám sát trên một số lĩnh vực cụ thể
được thể hiện qua các công trình nghiên cứu sau: đề tài "Quyền giám sát của
Quốc hội với Tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân" do TS. Phạm Văn
Hùng chủ trì; Luận văn thạc sĩ luật học: "Nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt
động của ủy ban pháp luật Quốc hội ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn thị
Dung. Bài của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt " Một vài suy nghĩ về hoạt động giám
sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội" đã kiến nghị tăng cường
mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện chức năng giám sát.
Liên quan tới vấn đề quyền giám sát của Quốc hội đối với tòa án trong
nhà nước tư sản đã có một số công trình nghiên cứu như "Luật Hiến pháp đối
chiếu" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung; "Hệ thống chính trị Mỹ" của TS. Vũ
Đăng Hinh và các đồng tác giả...
Các công trình khoa học nói trên đã góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung cũng như
TAND thời gian qua nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công
trình chuyên biệt nào nghiên cứu hoạt động giám sát của Quốc hội đối với
hoạt động xét xử của TAND. Mặc dù vậy, các công trình nói trên là những tài
liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung nghiên cứu: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số
vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản liên quan tới giám sát của Quốc hội đối với
4
hoạt động xét xử của TAND trong giai đoạn hiện nay. trên cơ sở đó đề ra
nhưng giải pháp tăng cường giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét sử
của TAND.
- Đây là một đề tài có phạm vi rộng, trong khuôn khổ một luận văn cao
học, chỉ đề cập nghiên cứu những nét khái quát chung nhất về giám sát của
Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND trên một số lĩnh vực hình sự,
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động. Thời gian từ năm 2003 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của
Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND ở nước ta hiện nay, luận văn
nêu ra những giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác giám sát của Quốc
hội đối với hoạt động xét xử của TAND trong thời gian tới.
*Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét
xử của TAND thông qua thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng về giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động xét xử của TAND từ năm 2003 đến nay.
- Nêu một số giải pháp tăng cường giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động xét xử của TAND hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
lý luận chung nhà nước và pháp luật nói chung và hoạt động giám sát của các
cơ quan nhà nước nói riêng.
5
- Phương pháp nghiên cứu, để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đặt ra,
luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
như: phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, kết hợp các phương pháp khác
như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội ...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn "Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân" là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện có hệ thống cả lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với TAND. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới cụ thể như
sau:
Đưa ra khái niệm, đặc điểm, giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xử của TAND.
Phân tích chỉ ra được thực trạng, nguyên nhân của hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với TAND từ năm 2003 đến nay, trên cơ sở đó đưa ra hệ
giải pháp tăng cường giám sát của Quốc hội đối với TAND trong thời gian
tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận:
Với kết quả đạt được, luận văn làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND qua đó
nâng cao hơn nữa nhận thức của nhân dân nói chung, của cán bộ công chức
nhà nước nói riêng về vị trí pháp lý, vai trò tầm quan trọng của Quốc hội - là
một thiết quyền lực nhà nước.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát của Quốc hội đối với TAND.
8. Kết cấu của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, NGUYÊN TẮC, VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm
Hoạt động xét xử của TAND là biểu hiện tập trung cao nhất của cả
quá trình giải quyết một vụ án. Tại phiên tòa mọi hoạt động của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều thể hiện một cách công khai. Những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đều được công khai tranh
tụng, đưa ra những lý lẽ bảo vệ mình hoặc bác bỏ lý lẽ của người khác… Và
cuối cùng là những phán quyết của Hội đồng xét xử. Có thể nói rằng, một vụ
án dù lớn hay nhỏ, điều mà xã hội quan tâm là Tòa án xét xử như thế nào,
phán quyết cuối cùng ra sao?
Thật vậy, xét xử là hoạt động đặc trưng của Tòa án, ngay trong Hiến
pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập - mặc
dù không quy định rõ Tòa án là cơ quan xét xử nhưng trên tinh thần Hiến
pháp, chúng ta cũng có thể hiểu Tòa án là cơ quan xét xử, Điều 46 Hiến
pháp năm 1946 quy định: "Trong khi xét xử các viên thẩm phán chỉ tuân
theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp". Đến các bản Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của Tòa án,
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa
án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định
là những cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12, tr.
71]. Trên cơ sở của Hiến pháp, Luật tổ chức TAND cũng đã quy định về
thẩm quyền xét xử của TAND.
8
Pháp luật tố tụng nước ta quy định nguyên tắc xét xử hai cấp, sơ thẩm
và phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án là xét xử lần thứ nhất, là giai đoạn tố
tụng mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử. Trong giai đoạn này, Hội đồng xét
xử sơ thẩm tiến hành các hoạt động tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng, căn cứ
vào các tình tiết vụ án cụ thể, vào quy định của pháp luật lần đầu tiên nhân
danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án đó.
Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng, Tòa án cấp trên trực tiếp xét
xử lại vụ án do Tòa án cấp dưới xét xử những bản án hoặc quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, nhằm sửa chữa sai lầm
của bản án hoặc quyết định sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử vụ án được nghiêm
minh, khách quan, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Vậy xét xử là gì?
Theo Đại từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1998: "Xét xử; xét và xử
các vụ án nói chung" [45, tr. 1859].
Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Xét xử; hoạt động do tòa
án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó tòa án sau khi nghiên cứu một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải
quyết, xử lý vụ án bằng cách việc ra bản án và quyết định cần thiết có liên
quan" [29, tr. 418].
Với quan niệm xét xử như trên, có thể hiểu hoạt động xét xử của
TAND là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực của nhà nước, được
thực hiện thông qua thẩm phán và Hội đồng xét xử nhằm cá biệt hóa các quy
phạm pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự góp
phần làm ổn định trật tự xã hội.
1.1.2. Đặc trưng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
Một là, hoạt động xét xử của TAND là quá trình áp dụng pháp luật
vào việc giải quyết vụ án cụ thể.
9
Áp dụng pháp luật là một hoạt động phổ biến, hoạt động của rất nhiều
chủ thể trong xã hội. Đó là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan hành
pháp, hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, khi nói áp
dụng pháp luật đối với hoạt động xét xử thì chúng ta chỉ liên hệ đến hoạt động
của cơ quan tư pháp. Để giải quyết một vụ án. có sự tham gia của rất nhiều cơ
quan, tổ chức có chức danh đại diện riêng như: cơ quan điều tra với chức
danh điều tra viên; cơ quan kiểm sát với chức danh kiểm sát viên; cơ quan tòa
án vói chức danh thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư... mỗi chức danh đều
đại diện cho từng cơ quan tư pháp đều thực hiện áp dụng pháp luật. Nếu như
hoạt động áp dụng pháp luật của luật sư là đưa ra lý lẽ để thuyết phục hội
đồng xét xử, để bảo vệ thân chủ, nếu như hoạt động áp dụng pháp luật của
kiểm sát viên để buộc tội, để đề xuất một chế tài nhất định với bị cáo… thì
hoạt động áp dụng pháp luật của thẩm phán để đưa ra phán quyết. có nghĩa là
kết quả công việc của chức danh khác không có tính quyết định, tất cả các
hoạt động đó đều phụ thuộc vào tòa án có lựa chọn hay không lựa chọn đề
nghị của cơ quan tổ chức đó và đây là đặc trưng trong hoạt động xét xử của
tòa án.
Hai là, hoạt động xét xử của TAND là hoạt động giải thích pháp luật,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Một trong những nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) là
ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật. Các văn bản này
được đặt dưới tên gọi Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC hay
Thông tư liên tịch. Đây là hoạt động hết sức đặc trưng của hoạt động xét xử.
Bởi vì, TAND không phải là cơ quan lập pháp nhưng bằng thực tiễn công tác
của mình, TAND đã chỉ ra những quy định pháp luật còn mơ hồ, không rõ
ràng, hoặc khó hiểu, hoặc có quá nhiều cách hiểu khác nhau. Từ đó Tòa án
đưa ra cách hiểu và cách áp dụng thống nhất. Sự giải thích này, rõ ràng, có
10
ảnh hưởng tới quyền lợi ích của các đương sự, thậm chí, còn ảnh hưởng đến
quyết định của các cơ quan tổ chức có liên quan.
Ba là, hoạt động xét xử của TAND là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước.
Nói đến đặc trưng trong hoạt động xét xử không thể không nói đến
hoạt động ra bản án, quyết định của thẩm phán, đây là một hoạt động mang
tính quyền lực cao, nhân danh nhà nước và chỉ tuân theo pháp luật. Bản án,
quyết định của Hội đồng xét xử có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan tổ chức và mọi công dân. Trong đó có những quyền chỉ
Tòa án mới phán quyết được. Ví dụ, đó là quyền sống, quyền tự do của con
người. Tính quyền lực này được thể hiện ngay phần mở đầu của bản án, quyết
định, đó là "nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Tính
quyền lực này còn thể hiện trong các quy định của pháp luật buộc "bản án,
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải
được mọi công dân, cơ quan tổ chức tôn trọng. cá nhân, cơ quan tổ chức có
nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của tòa án".
1.1.3. Nguyên tắc hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
Nguyên tắc hoạt động xét xử của TAND là những quan điểm, tư
tưởng cơ bản chỉ đạo toàn bộ quá trình tổ chức, thực hiện xét xử tại phiên tòa
nhằm đưa ra những bản án đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, nguyên tắc xét xử của TAND bao gồm những
điểm sau.
1.1.3.1. Nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và từ tính quyền lực của Nhà nước là
quyền lực của nhân dân. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã khẳng
11
định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Vì vậy, các hoạt động quyền lực của Nhà nước đều phải có sự tham
gia của nhân dân. Trong hoạt động tư pháp mà chủ yếu là hoạt động xét xử
của Tòa án phải đảm bảo cho nhân dân trực tiếp tham gia. Nguyên tắc này
được thể hiện ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1946. Điều 65: "Trong khi xét xử việc hình thì có phụ thẩm
nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định
với thẩm phán nếu là việc đại hình". Điều này tiếp tục được khẳng định tại
Điều 99 Hiến pháp năm 1959 và quy định rõ thẩm quyền của Hội thẩm nhân
dân là: "Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia
theo quy định của pháp luật khi xét xử thì hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán". Đến Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc này còn quy định rõ thêm chế
độ Hội thẩm nhân dân như sau: "Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định
của pháp luật khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán"[12].
Như vậy, trong hoạt động xét xử gồm có thẩm phán là người có
nghiệp vụ chuyên môn do nhà nước bổ nhiệm và các Hội thẩm nhân dân và
Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia vào hoạt động xét xử. Cơ
cấu thành phần như vậy giúp cho TAND đưa ra những phán quyết đúng đắn,
khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.1.3.2. Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc quan trọng mang tính nền tảng đối với hoạt động
xét xử của TAND. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu của xã hội
dân chủ đồng thời. chống lại sự can thiệp của các cá nhân và cơ quan nhà
nước khác vào hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án
nói riêng. Ở Việt Nam, nguyên tắc này được thừa nhận ngay từ khi thành lập
12
Tòa án cách mạng. Tại Điều 47 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946
quy định "Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính". Điều 69 Hiến
pháp năm 1946 cũng quy định: "Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp". Các bản Hiến
pháp 1959, 1980, 1992 cũng khẳng định nguyên tắc này. Điều 130 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm
độc lập chỉ tuân theo pháp luật". Thực chất của nguyên tắc này là đảm bảo
cho hoạt động xét xử được độc lập không bị lệ thuộc bởi tác động của cơ quan
nào và cá nhân nào. Từ đó hoạt động xét xử mới đưa ra được phán quyết đúng
đắn kết quả chính xác. Nội dung của nguyên tắc này là khi xét xử thẩm phán
và Hội thẩm độc lập đánh giá chứng cứ thu thập được, độc lập xem xét tình
tiết vụ án, độc lập trong nhận định và vận dụng đúng quy định pháp luật để
đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội đúng pháp luật. Tòa án cấp trên cũng
không được dùng mệnh lệnh hành chính buộc Tòa án cấp dưới xử theo ý
mình. Đảng đối với Tòa án chủ yếu là bằng chủ trương, đường lối chính sách,
chứ không nhất thiết can thiệp vào các vụ án cụ thể.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi các thẩm phán phải có trình
độ chuyên môn cao, tinh thông về pháp luật: Hội thẩm nhân dân phải có hiểu
biết về pháp luật về lĩnh vực được đề cập trong từng vụ án cụ thể.
1.1.3.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Trên thế giới hiện nay có nhiều nước áp dụng một thẩm phán xét xử
đối với những vụ án đơn giản. Tuy nhiên, các vụ án phức tạp liên quan tới lợi
ích nhiều chủ thể khác nhau, đến quyền công dân và sinh mạng của con người
thì đều tiến hành xét xử tập thể. Việc xét xử tập thể phát huy được trí tuệ tập
thể thẩm phán, hội thẩm nhân dân, từ đó có nhữn