Đề tài Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất, kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tê – xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Trong các giao dịch dân sự ở nước ta đã xảy ra không ít các vụ việc tranh chấp trong giao dịch mà đặc biệt là vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu. Thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân (TAND) thì vấn đề giải quyết các hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu không thuần tuý chỉ căn cứ vào quy định của BLDS mà nó còn phụ thuộc và nhiều yếu tố trong thực tế mà đôi khi không được quy định trong BLDS. Quá trình thực hiên BLDS bên cạnh các mặt tích cực thì không thể tránh khỏi những thực trạng còn tồn tại. Mà phải kể đến số lượng các vụ tranh chấp về dân sự ngày càng tăng, trong đó các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết các hậu quả pháp lý của nó để lại là một vấn đề còn rất nhiều tranh cãi. Với bài làm đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” em hi vọng có thể phần bào một phần nào đó làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về giao dịch dân sự, làm rõ chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong chế định chung về giao dịch vè căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu. Đồng thời từ thực trạng của các giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng còn đang tồn tại ở nước ta em sẽ đưa ra một số ý kiến riêng nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về giao dịch dân sự ở nước ta.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4108 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.Mở Bài Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất, kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tê – xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Trong các giao dịch dân sự ở nước ta đã xảy ra không ít các vụ việc tranh chấp trong giao dịch mà đặc biệt là vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu. Thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân (TAND) thì vấn đề giải quyết các hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu không thuần tuý chỉ căn cứ vào quy định của BLDS mà nó còn phụ thuộc và nhiều yếu tố trong thực tế mà đôi khi không được quy định trong BLDS. Quá trình thực hiên BLDS bên cạnh các mặt tích cực thì không thể tránh khỏi những thực trạng còn tồn tại. Mà phải kể đến số lượng các vụ tranh chấp về dân sự ngày càng tăng, trong đó các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết các hậu quả pháp lý của nó để lại là một vấn đề còn rất nhiều tranh cãi. Với bài làm đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” em hi vọng có thể phần bào một phần nào đó làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về giao dịch dân sự, làm rõ chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong chế định chung về giao dịch vè căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu. Đồng thời từ thực trạng của các giao dịch dân sự nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu nói riêng còn đang tồn tại ở nước ta em sẽ đưa ra một số ý kiến riêng nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về giao dịch dân sự ở nước ta. B. Nội Dung: I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự có hiệu lực: 1, Giao dịch dân sự: Theo Điều 121 BLDS 2005 :“Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý dơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dưt quyền và nghĩa vụ dân sự” 2. Giao dịch dân sự có hiệu lực: Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi pháp lý nào đều là giao dịch dân sự hợp pháp. Một giao dịch muốn được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó thì hành vi của người tham gia giao dịch phải trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Theo pháp luật Việt Nam thì giao dịch muốn được pháp luật dân sự công nhận và bảo vệ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 122 BLDS 2005 đó là: “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện để có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” 2.1. Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự: “người” ở đây bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự: Đối với cá nhân: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhát giưax ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức đuợc hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên, giao dịch dân sự do các nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ điều 17 đến điều 23 BLDS năm 2005) “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập , thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự” (theo Điều 17 BLDS 2005) …. Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn mà có trường hợp có những cá nhân bị hạn chế, hoặc chỉ nó năng lực hành vi dân sự một phần thì trường hợp này cần có những người đại diện cho họ đứng ra để đảm bảo cho họ trong giao dịch dân sự. + Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đuợc toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự. + Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. + Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý …) + Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không đuợc phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Còn đối với các chủ thể khác: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đền hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất và kinh doanh khác theo qui định của pháp luật (Điều 106 BLDS 2005). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005). 2.2. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi: Mục đích tức là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch dân sự nào đó. Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Tất cả nội dung và mục đích của bất kì một giao dịch dân sự nào đều phải phù hợp vơi pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự và giao dịch dân sự mới có hiệu lực. 2.3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí, và bày tỏ ý chí, cho nân tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, thiếu một yếu tố đó không còn là tự nguyện. các bên tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện: tự do, tự nguyện câm kết, thỏa thuận, vi phạm sự tự nguyện chính là vi phạm thỏa thuận, và vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thỏa thuận được quy định tại Điều 4 BLDS 2005. 2.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật: Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch, Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết đuợc nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa cá bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra. Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lực chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ thao (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhân, được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 124 BLDS năm 2005) II. Giao dịch dân sự vô hiệu: 1. Khái Niệm: Theo Điều 127 BLDS 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được qui định tại Điều 122 của bộ luật này thì vô hiệu”. Ví phạm các điều khoản tại Điều 122 thì giao dịch sẽ không có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm ký kết nêu giao dịch chưa được thực hiện hoặc đang thực hiện thì không còn được thực hiện nữa, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những điều đã nhận. Như vậy ta khẳng định rằng chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Những quy định về sự vô hiệu của gia dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý chủ cho các chủ thể trong giao lưu dân sự. Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 127 đến Điều 138 của BLDS 2005. 2. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu: Giao dịch dân sự vô hiệu có thể phân thành 2 nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối ( vô hiệu đương nhiên); vô hiêu tương đối (do toà án tuyên). Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Thú nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch, vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu, còn vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người co quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa nán tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS năm 2005). Riêng trường hợp vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối, nhưng theo quy định của Điều 136 BLDS năm 2005 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Thứ ba, giao dịch dấn ự thuộc trường hợp vô hiệu tueyetj đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đường nhiên không có giá trị. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Thứ tư là sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp pháp luật quy định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công, còn các trường hợp pháp luật quy định vô hiệu tương đối nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể tham gia giao dịch. Vô hiệu tuyệt đối: các trường hợp sau bị coi là vô hiệu tuyệt đối: +) Khi vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS 2005) +) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác, hoặc trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ 3. (Điều 129 BLDS 2005) +) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ những qui định của pháp luật (Điều 134 BLDS 2005) Vô hiệu tương đối khi có các trường hợp sau: +) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 130 BLDS 2005) +) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BKDS 2005) +) Khi một bên tham gia giao dịch bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS 2005) +) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005). 2.1, Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: (Điều 128 BLDS 2005) Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập vè thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên, “tự do thực hiện giao dịch dân sự” chỉ được thừa nhận ở một mức độ hợp lý nếu giao dịch đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Thông thường các quy định của pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Tuy nhiên có một số giao dịch không có quy định của pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn vô hiệu vì xâm phạm đạo đức xã hội, ví dụ hợp đồng ngăn cản cha mẹ và con cái sống chung là vô hiệu vì vi phạm đạo đức xã hội. Trong trường hợp này giao dịch dân sự được coi là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối bởi vậy pháp luật không quy định thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu, các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch, tài sản, hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch bị tịch thu và sung quỹ nhà nước nếu trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình, nếu một bên có lỗi thì bên đó phải chịu thiệt hại. Trong nhiều trường hợp pháp luật buộc các bên phải biết mình đã giao kết và thực hiện giao dịch dân sự bất hợp pháp, ví dụ mua bán hêroin, trong trường hợp này cả hai bên đều có lỗi và phải chịu thiệt hại, ngoài ra các bên còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của bộ luật hình sự. 2.2, Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: (Điều 129 BLDS 2005) Giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao dịch. Có hai loại giao dịch dân sự giả tạo: Thứ nhất là giao dịch được xác lập để che giấu một giao dịch dân sự khác. Thứ hai là giao dịch được xác lập nhưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Trong cả hai trường hợp trên đều có đặc điểm chung đó là sự thông đồng, nhất trí của cả hai bên tham gia giao dịch dân sự nhằm tạo ra sự nhận thức sai lầm bên ngoài của sự việc. các giao dịch dân sự giả tạo đều bị coi là vô hiệu. 2.3, Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: (Điều 130 BLDS 2005) Theo quy định tại Điều 122 thì điều kiện đầu tiên để giao dịch dân sự có hiệu lực là người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể tự mình thể hiện ý chí và ý thức dầy đủ về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm phát sinh từ giao dịch mà mình đã giao kết và sẽ thực hiện. Những giao dịch này không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ được xem xét vô hiệu khi có yêu cầu của người đại diện cho họ, nếu người đại diện của họ không khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu thì đương nhiên giao dịch vẫn có hiệu lực pháp luật. 2.4, Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn: (Điều 131 BLDS 2005) Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ sự nhận thức của các bên phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. nếu bên nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể cị tuyên vô hiệu. Trường hợp sự nhầm lẫn có thể xảy đến do lỗi của một bên đối tác thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch hoặc yêu cầu Tòa Án tuyên bố vô hiệu. 2.5, Giao dịch dân sự do bị lừa dối, đe dọa. (Điều 132 BLDS 2005) Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa thì vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, đe dọa và Tòa án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của của bên bị lừa dối, de dọa. khi Tòa án tuyên bố vô hiệu thì bên lừa dối, de dọa phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối với bên bị lừa dối, de dọa. 2.6, Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. (Điều 133 BLDS 2005). Đây là trường hợp xác lập giao dịch trong điều kiện nào đó với những nguyên nhân khác nhau mà tại thời điểm xác lập giao dịch, người đó không nhân thức được hành vi của mình như say rượu.... Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự. thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vo hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia giao dịch. 2.7, Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức của giao dịch. (Điều 134 BLDS 2005) Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự chọn hình thức giao dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy dịnh này thì mới vô hiệu. Khi các bên không tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án xem xét và “buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định”. Việc ấn định thời hạn do tòa án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và nghĩa vụ của tòa án. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do tòa án quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại. Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng thể của mối quan hệ biến chứng này.Giao dịch dân sự không tuân thủ các điều kiên mà pháp luật quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì có thể bị Tòa án tuyên bố là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ hay từng phần. Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ là giao dịch dân sự có toàn bộ nội dung vô hiệu hoặc một phần bị vô hiệu nhưng ảnh hưởng đến toàn bộ giao dịch, do đó giao dịch không co hiệu lực pháp lý. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần là khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của giao dịch (theo quy định tại Điều 135 BLDS năm 2005). Trong trường hợp này chỉ phần của giao dịch bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu không có hiệu lực pháp luật, còn các phần còn lại vẫn có giá trị pháp lý. III. Hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu có nghĩa là giao dịch ấy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Theo Điều 137 BLDS 2005 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. nên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. ”. Trong trường hợp vô hiệu tuyệt đối, giao dịch dân sự ấy có thể bị vô hiêu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đương nhiên không có giá trị, còn trong trường hợp vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của Toàn án mang tính chất phán xử. Tòa án tiến hành giải quyêt các vụ việc khí có đơn yêu cầu của các bên (hoặc đại diện hợp pháp của họ). bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa các cơ sở yêu cầu. Dựa trên những minh chứng đó, Tòa án mới cân nhắc để ra quyết định giao dịch có bị vô hiệu hay không. Vậy trừ trường hợp vô hiệu tuyệt đối, chỉ khi Tòa án tuyên bố thì một giao dịch dân sự mới bị xác định là vô hiêu, vàtuyên bố giao dịch dân sự vô hiêu của Tòa án khiến giao dịch dân sự ấy trở nên vô hiệu, có nghĩa là: 1. Chấm dứt thực hiên giao dịch dân sự: Khi một giao dịch vô hiệu, không có gi
Luận văn liên quan