Giao kết HĐDS là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự. Vậy, giao kết HĐDS được pháp luật quy định như thế nào? Trình tự giao kết HĐDS phải thực hiện như thế nào cho đúng với quy định của pháp luật? Vì muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về giao kết HĐDS nên em đã lựa chọn đề tái: “Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” để nghiên cứu làm bài tập học kì của mình
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3272 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:
NỘI DUNG:
I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:
1.1. Khái niệm giao kết HĐDS:
1.2. Bản chất của giao kết HĐDS:
1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:
1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
1.3.2. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng:
2. Trình tự giao kết HĐDS:
2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm, hình thức, nội dung đề nghị giao kết HĐDS:
2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:
2.1.4. Chấm dứt đề nghi giao kết HĐDS:
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
2.2.1. Khái niệm, hình thức, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết:
2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS:
2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS:
2.2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS:
2.3. Địa điểm, thời điểm giao kết HĐDS:
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN :
III. KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HĐDS Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:
KẾT LUẬN:
LỜI MỞ ĐẦU:
Giao kết HĐDS là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự. Vậy, giao kết HĐDS được pháp luật quy định như thế nào? Trình tự giao kết HĐDS phải thực hiện như thế nào cho đúng với quy định của pháp luật? Vì muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về giao kết HĐDS nên em đã lựa chọn đề tái: “Giao kết hợp đồng dân sự theo quy định pháp luật hiện hành. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” để nghiên cứu làm bài tập học kì của mình.
NỘI DUNG:
I. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:
1.1. Khái niệm giao kết HĐDS:
Giao kết HĐDS có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau.
1.2. Bản chất của giao kết HĐDS:
Bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận, trong đó các bên thể hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết HĐDS cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình giao kết HĐDS diễn ra với hai yếu tố: sự bày tỏ ý chí (đề nghi giao kết) và sự chấp nhận ý chí (chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS), nhưng thực tế không phải là HĐDS nào cũng xác định được rõ ràng hai yếu tố này. Quá tình này có thể diễn ra nhanh chóng hay kéo dài, đơn giản hay phức tạp, diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau… (phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: ý chí các bên, vào nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng…). Các bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau trao đổi, đàm phán, thương lượng, kí kết…) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng, các phương tiện điện tử…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung của hợp đồng.
HĐDS có nhiều loại nhưng kết quả cuối cùng của quá trình giao kết HĐDS nói chung đều là thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự trong quan hệ hợp đồng đó (hình thành HĐDS). Do đó, bản chất của giao kết HĐDS là quá tình bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng nhằm thỏa thuận, thống nhất toàn bộ nội dung, hình thức HĐDS theo quy định của pháp luật.
1.3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:
Theo quy định tại Điều 389 BLDS 2005, khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau:
1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội:
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một HĐDS nào, nếu họ muốn, mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những HĐDS đã được pháp luật quy định cụ thề cũng như những HĐDS khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể “không trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền tự do “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết HĐDS nói riêng cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.
1.3.2. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng:
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lí do khác về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế … để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng, thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phảo là ý chí tự nguyện hay không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.
HĐDS là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một HĐDS có tuân theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết, thì việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện.
Như vậy, tất cả các trường hợp được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe dọa đều là nhứng hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết. Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu (xem thêm Điều 131, Điều 132 BLDS).
2. Trình tự giao kết HĐDS:
2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm, hình thức, nội dung đề nghị giao kết HĐDS:
+ Khái niệm:
BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” (khoản 1 Điều 390). Như vậy, BLDS 2005 Việt Nam sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng” mà không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” hay “lời đề nghị” như pháp luật của các nước cũng như Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980).
+ Hình thức đề nghị giao kết HĐDS:
BLDS 2005 có quy định về hình thức HĐDS (có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể), nhưng không có quy định cụ thể về hình thức của đề nghị giao kết HĐDS. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật có liên quan và thực tế cho thấy việc đề nghị giao kết HĐDS được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau và có thể thể hiện dưới bất kì hình thức nào. Bên đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với bên được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện, thông qua phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà bên giao kết hợp đồng không có mặt tại cùng một địa điểm để kí kết hợp đồng (bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể…) để biểu lộ ý chí của mình muốn tham gia giao kết với chủ thể nhất định một HĐ DS.
+ Nội dung đề nghị giao kết HĐDS: Bên đề nghị giao kết HĐDS phải đưa ra nội dung đề nghi giao kết với những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng để bên kia có thể hình dung ra được HĐDS sẽ được giao kết với nội dung như thế nào, có thể tham gia giao kết HĐDS đó được hay không ?
BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết HĐDS và Luật Thương mại năm 2005 cũng không quy định nội dung của “chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Thực tế cho thấy, đề nghị giao kết hợp đồng và một số hành vi như: lời mới làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ… rất khó phân biệt mà hậu quả pháp lý của đề nghị giao kết HĐDS có ý nghĩa rất quan trọng đối với bên đề nghị giao kết nên rất cần phải xác định nội dung của đề nghị giao kết HĐDS. Theo em, nội dung của đề nghị giao kết HĐDS cần có các yếu tố chính sau:
Thứ nhất, đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ: Bên đề nghị giao kết phải thể hiện rõ nội dung mình muốn bán nhà ở (giao kết hợp đồng mua bán nhà nở) hoặc muốn cho thuê nhà ở (hợp đồng thuê nhà ở) với chủ thể khác…
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại HĐ DS mà các bên muốn xác lập: Đề nghị giao kết HĐDS do bên đề nghị chủ động đưa ra nội dung (chưa phải là HĐDS), nhưng hỏi phải thể hiện rõ những nội dung chủ yếu của HĐDS mà bên đề nghị dự kiến sẽ giao kết để các chủ thể khác biết được và tham gia giao kết hợp đồng (đề nghị giao kết hợp đồng chứa các nội dung của hợp đồng tương lai). Yêu cầu này có nghĩa là đề nghị giao kết HĐDS phải có đầy đủ nội dung chủ yếu của loại HĐDS để cho phép bên nhận được đề nghị biết được rằng, để giao kết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với đề nghị giao kết thì HĐDS được giao kết.
Nội dung chủ yếu của HĐDS là những điều khoản mà không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng; Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì HĐDS không thể giao kết được. Tuy nhiên, BLDS 2005 hiện nay không quy định về nội dung “chủ yếu” của HĐDS mà chỉ quy định: Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phạt vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định này chỉ mang tính chất liệt kê các nội dung thường gặp trong hợp đồng chứ không phải quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng (Nội dung chủ yếu là những nội dung mà thiếu nó hợp đồng không thể được coi là giao kết). Ví dụ: Các quy định về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện … nếu không có thỏa thuận thì cũng đã có quy định của pháp luật. Như vậy, việc xác định nội dung chủ yếu của HĐDS cũng như nội dung của đề nghị giao kết HĐDS trên thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp.
Thứ ba, đề nghị giao kết HĐDS phải hướng tới một hoặc một vài chủ thể khác đã được xác định cụ thể: Đây là một nội dung quan trọng giúp phân biệt đề nghị giao kết HĐDS với một số hành vi tương tự như: Lời mời làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ … Trong nội dung đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị giao kết với bên đã được xác định về việc giao kết một HĐDS cụ thể và phải được “gửi” cho bên được đề nghị biết về đề nghị giao kết; Bên đề nghị giao kết phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể trong giao kết.
Thứ tư, đề nghị giao kết HĐDS có thể xác định thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết: Nghiên cứu khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam có quy định về trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời và như vậy cũng sẽ công nhận có trường hợp đề nghị giao kết không nêu rõ thời hạn trả lời trên thực tế. Tuy nhiên, BLDS 2005 không có quy định bắt buộc phải nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng cũng không quy định cụ thể cách thức xác định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS trong trường hợp đề nghị giao kết HĐDS không nêu rõ thời hạn trả lời chấp nhận giao kết và giá trị pháp lý của đề nghi giao kết này. Đây là vấn đề pháp sinh tranh chấp vvà rất khó giải quyết trên thực tế.
2.1.2. Thời điểm đề nghi giao kết HĐDS có hiệu lực:
Việc xác định đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực là quan trọng vì đó là thời điểm mà bên nhận đề nghị giao kết có thể chấp nhận lời đề nghị, do vạy ràng buộc bên đưa ra đề nghị về hợp đồng sẽ quyết định giao kết.
Theo pháp luật dân sự thì đề nghị giao kết HĐDS chỉ phát sinh hiẹu lực khi nó được thông báo (gửi) cho bên được đề nghị biết. BLDS 2005 bổ sung Điều 391 quy định về thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực, cụ thể:
“1. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau:
a) Do bên đề nghị ấn định;
b) Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. ....”
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam quy định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực theo hướng để cho bên đề nghị giao kết chủ động ấn định thời điểm trong đề nghị giao kết HĐDS, nhưng đồng thời cũng quy định cách xác định thời điểm trong trường hợp bên đề nghị giao kết không ấn định thời điểm đề nghị giao kết HĐDS có hiệu lực (có hiệu lực từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị). Quy định này bảo đảm phù hợp với quan hệ HĐDS vốn rất đa dạng, phong phú trên thực tế.
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ và sửa đổi đề nghị giao kết của HĐDS:
BLDS 2005 quy định các trường hợp thay đổi, rút lại đề nghị giao kết HĐDS như sau:
+ Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao keét hợp đồng trong các trường hợp sau đây: Nếu bên được đề nghị được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nên rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (Điều 392).
+ Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này tỏng đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận đước thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393).
+ Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Điều 395). Bộ luật Dân sự không phân biệt nội dung điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị giao kết là nội dung chủ yếu hay không chủ yếu nên bất kì điều kiện hoặc sửa đổi nào từ phía bên được đề nghị giao kết hợp đồng đều được coi là đề nghị mới.
2.1.4. Chấm dứt đề nghi giao kết HĐDS:
Điều 394 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định khá cụ thể các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết HĐDS dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng, đề nghi giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
“1. Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
2. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
3. Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
4. Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;
5. Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời”.
2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
2.2.1. Khái niệm, hình thức, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết:
+ Khái niệm: BLDS 2005 có quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị” (Điều 396). Như vậy, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự là sự trả lời đồng ý của bên được đề nghị giao kết hợp đồng với toàn bộ nội dung được nêu trong đề nghị giao kết của bên đề nghị giao kết HĐDS.
+ Hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: Trên cơ sở thừa kế và phát triển các quy định tại khoản 3 Điều 11 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 và khoản 2 Điều 403 BLDS 1995, BLDS 2005 có quy định: “Hợp đồng dân sự cũng được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”(khoản 2 Điều 404). Như vậy, “im lặng” cũng có thể được coi là hình thức chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS nếu các bên có thỏa thuận hoặc bên đề nghị giao kết có nêu rõ trong đề nghị giao kết HĐDS.
+ Nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS: BLDS 2005 không quy định về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS, nhưng trên tinh thần nội dung Điều 396 quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo em, nội dung chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS thông thường phải đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, đồng ý (chấp nhận) toàn bộ nội dung như đã nêu trong đề nghị giao kết HĐDS tức là chấp nhận đầy đủ và không thiếu nội dung nào.
Thứ hai, không bổ sung thêm nội dung nào khac so với đề nghị giao kết HĐDS.
Nội dung mà bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời không thỏa mãn hai yếu tố như đã nêu trên sẽ được coi là đã đưa ra đề nghị mới (trong trường hợp bên được đề nghị giao kết có sửa đổi, bổ sung, đồng ý một phần nội dung đề nghị giao kết hoặc có thể đồng ý việc giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị giao kết đưa ra), hoặc không chấp nhận đề nghị giao ết HĐDS (trường hợp trả lời không đồng ý việc giao kết HĐDS với bên đề nghị giao kết). Do đó, trường hợp các bên có sự trao đổi qua lại, sửa đổi, bổ sung nội dung điều khoản đã nêu trong quá tình giao kết HĐDS sẽ có sự hoán vị từ bên được đề nghị giao kết hợp đồng thành bên đề nghị giao kết hợp đồng và ngược lại ... cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với nhau đồng ý toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết HĐDS.
2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS:
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS được quy định tại Điều 397 BLDS 2005 như sau:
“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời ......”.
Như vậy, BLDS 2005 đã quy định bổ sung quy định công nhận thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lí do khách quan. Đồng thời có quy định “Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện, thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu của bưu điện” (khoản 3 Điều 397 BLDS 1995)... nhằm đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với giao lưu dân sự quốc tế.
2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS:
Vấn đề rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng là một vấn đề mới được quy định tại Điều 400 BLDS 2005. Theo đó, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị giao kết hợp đồng trong việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết HĐDS, phù hợp với tính chất của quan hệ HĐDS.
2.2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS:
BLDS 2005 quy định làm rõ hậu quả pháp lý của sự trả lời chấp nhận giao kết HĐDS trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 398) và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 399). Theo đó, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau