Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mở, hệ thống các ngân hàng thương mại trên khắp thế giới phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Sự phát triển của các ngân hang thương mại có tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước đó cũng như trên khắp thế giới.
Bên cạnh những thuận lợi có được, các Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng gặp không ít các bất ổn khó giải quyết.Nhưng nhờ có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương(NHTW), hệ tống ngân hàng các nước trên khắp thế giới đã dần ổn định và phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy hiện nay hệ thống các NHTM cũng như NHTW đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.
50 trang |
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ëëëëëëëëëëëëë
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
TÊN ĐỀ TÀI: Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
STT
Đào Thị Hằng( Nhóm trưởng)
1211510017
42
Nguyễn Thị Linh
1211510039
76
Trần Thị Hồng Ngọc
1211510050
89
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan
Hà Nội, 30 tháng 9 năm 2013
Mục lục
A, Mở đầu
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mở, hệ thống các ngân hàng thương mại trên khắp thế giới phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Sự phát triển của các ngân hang thương mại có tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước đó cũng như trên khắp thế giới.
Bên cạnh những thuận lợi có được, các Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng gặp không ít các bất ổn khó giải quyết.Nhưng nhờ có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương(NHTW), hệ tống ngân hàng các nước trên khắp thế giới đã dần ổn định và phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy hiện nay hệ thống các NHTM cũng như NHTW đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.
Trong quá trình tìm hiểu nhận thấy tính thiết thực và quan trọng của việc phân tích bất ổn thường gặp của hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và cách ứng phó của ngân hàng trung ương nên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài 1
Tên đề tài: “Hãy phân tích những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các ngân hàng thương mại trên thế giới và những ứng phó của ngân hàng trung ương đối với vấn đề này”
Mục đích nghiên cứu:
Nhằm thống kê, chỉ ra những bất ổn hiện nay trong hệ thống các NHTM cũng như các ứng phó của NHTW trước những bất ổn đó. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn tổng quan hơn về NHTM và NHTW.
Làm rõ nguyên nhân gây ra rủi ro và đánh giá rủi ro hoạt động trong các ngân hàng thương mại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Chỉ ra một số hoạt động quản trị rủi ro có hiệu quả
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập thông tin:
Nghiên cứu tài liệu.
Phi thực nghiệm.
Phương pháp ngiên cứu tài liệu
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp phân tích và hệ thống hóa.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: bất ổn thường gặp trong hệ thống NHTM và cách ứng phó của NHTW trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Trên thế giới.
Phạm vi thời gian: Từ năm 2000-2013.
B, Phần nội dung:
: Những bất ổn thường gặp hiện nay trong hệ thống các NHTM của các nước trên thế giới.
Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng với các đặc điểm, đặc thù của ngân hàng thương mại có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng của ngân hàng gặp phải nguy cơ rủi ro cao hơn cả. Người ta có thể khái quát các loại rủi ro ( vấn đề bất ổn) của các ngân hàng thương mại như sau:
Rủi ro tín dụng (nợ xấu):
Khái niệm
Đó là loại rủi ro khi người vay không trả được nợ ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất cho ngân hàng thương mại. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư. Thông thường đối với các ngân hàng trên thế giới nó mang lại 2/3 phần thu nhập, còn ở Việt Nam là 90% thu nhập của ngân hàng thương mại. Tuy mang lại nhiều thu nhập nhưng trong lĩnh vực này nếu gặp rủi ro thì hậu quả sẽ rất lớn, nhiều khi dẫn đến sự phá sản của một ngân hàng. “Các khoản tiền cho vay có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác nên các ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào các món cho vay”. Bất cứ một rủi ro nào của người đi vay đều có thể đưa đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên rủi ro tín dụng của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng suất hiện là lớn hơn các ngành khác.
Các hình thức của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trương hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi, không thu được vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tùy trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ quá hạn. Khi không thu được lãi đúng hạn ,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. N ếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh ngiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này ngân hàng không thể thu hồi được (do doanh nghiệp bị phá sản chẳng hạn) thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì ngân hàng có thể xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau, mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường ,hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường xuyên phải đương đầu với cạnh tranh và chịu sự chi phối rất lớn của quy luật cung cầu ,giá cả thị trường ...nên cũng phải thường xuyên đối mặt với rủi ro từ nhiều phía kể cả các rủi ro thuần tuý như thiên tai ,trộm cắp...có khi do giá cả thay đổi ,khả năng quản lý kém ,sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước ...dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp làm cho kinh doanh gặp khó khăn thua lỗ,thậm chí phá sản .Đồng thời hoặt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng không thể thoát ly khỏi mối quan hệ với ngân hàng .Chính vì vậy rủi ro của ngân hàng thương mại là cộng hưởng rủi ro của các doanh nghiệp .
Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làm hai trường hợp lớn .Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận
Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng .
Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu,giấy tờ ,quyền sở hữu tài sản .Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác,cố ý đưa ra số liệu sai sự thật ,phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị.Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho ngân hàng .Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản ,doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng khác nhau.Khi không thu được nợ,các ngân hàng thương mại phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa
Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị.Việc khách hàng gian lận gây ra rủi ro cho ngân hàng còn thể hiện qua những hoạt động của người đi vay có tư cách kém như cố tình không trả nợ ngân hàng hoặc lừa đảo ngân hàng rồi bỏ trốn.
Khách hàng không gian lận
Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn.Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng.
- Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế.
Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không.
- Ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng ... nhằm lôi kéo khách hàng.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề.
Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Môi trường kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại ... Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản.
Môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín dụng ... Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay ní cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng, nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Nguyên nhân từ môi trường xã hội:
Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài... Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc gia. Những thay đổi về chính trị rết có thể dẫn đến sự biíen động cán cân thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức cầu tiền tệ... trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại.
Một số ngân hàng thương mại thế giới và rủi ro tín dụng:
Ngân hàng Lehman Brothers:
15/9 vừa qua đánh dấu tròn 5 năm ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ, cũng là sự mở đầu cho trận sóng thần tài chính thế giới lớn nhất gần một thế kỷ qua. Kể từ đó, nhiều biện pháp đã được đưa ra nhằm khắc phục hậu quả. Các nước cũng ra sức tìm kiếm mô hình kinh tế bền vững nhằm tránh một cơn sóng thần mới trong tương lai. Nhưng cho đến nay, nỗ lực đó vẫn chỉ là giải pháp ngắn hạn, và dường người ta vẫn chưa rút ra được bài học nào từ lịch sử.Nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của Lehman Brothers 5 năm trước là sự liều lĩnh của chính họ cũng như các ngân hàng đầu tư khác khi theo đuổi lợi nhuận bằng cách khai thác công cụ tài chính mới, bất chấp mọi rủi ro. Các định chế tài chính, dẫn đầu là LB, còn tham gia nhiệt tình vào thị trường cho vay cầm cố bất động sản đang bùng nổ, do cơ chế lãi suất thấp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).Các ngân hàng cho vay mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Sau đó, những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu.
Cùng với khủng hoảng nợ công khu vực đồng euro (eurozone), nợ công trong hệ thống ngân hàng châu Âu tăng mạnh những tháng cuối năm 2012:
Theo một khảo sát của hãng kiểm toán PricewaterhouseCoopers (PwC), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, nợ xấu của ngân hàng châu Âu tăng gấp đôi. Tổng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng châu Âu hiện là 1,05 nghìn tỷ euro (1,85 nghìn tỷ USD), tăng 10% so với cuối năm 2011.Trong đó, tình trạng nợ xấu đặc biệt tồi tệ ở các nước eurozone vốn bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bong bóng bất động sản và khủng hoảng nợ khu vực. Chỉ tính riêng Hy Lạp, nợ xấu ngân hàng tăng gần 50% so với năm ngoái lên 40 tỷ euro, Tây Ban Nha tăng 23% lên 136 tỷ euro, Italia tăng 37% lên 107 tỷ euro. Đức, Anh và Pháp là các nước hiếm hoi mà nợ xấu ngân hàng không tăng kể từ năm 2010.Do các nhà đầu tư không sẵn sàng tái cấp vốn và các chính phủ không thể bơm thêm tiền nên các ngân hàng chỉ còn cách bán tài sản và giảm quy mô hoạt động để bù đắp nợ xấu.
Nợ xấu” không phải là vấn đề mới trên thế giới, nhưng hiện Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm xử lý. Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc đã từng “gánh” khoản nợ xấu cao ngất ngưởng. Hệ thống tài chính ngân hàng rơi vào tình trạng báo động cao nhất và rất nhiều ngân hàng đã phải “trả giá”.
Cho “vay dưới chuẩn”: Lòng tham giống nhau. Theo ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB, năm 2003, Trung Quốc có bốn ngân hàng Thương mại (NHTM) quốc doanh lớn nhất với tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ nhân dân tệ (NDT), chiếm khoảng 55% tổng tài sản của hệ thống tài chính.
Các “đại gia” làng tài chính đã cho vay tới 90% dư nợ của các công ty nhà nước và tỏ ra khá thoải mái trong các khoản vay đầu tư bất động sản, chứng khoán.
Điều này không mấy khác so với tình trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao) của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008.
Việc các ngân hàng Trung Quốc phải gánh nhiều khoản vay khó đòi xuất phát từ các xí nghiệp quốc doanh liên tục làm ăn cthua lỗ. Có tới 70% xí nghiệp quốc hữu trong tình trạng thâm vốn nặng, và đến 98% xí nghiệp phải sống vật vờ nhờ các khoản vay ngân hàng.
Trong khi đó, Hoa Kỳ năm 2007 phải gánh con số dư nợ là 1.300 tỷ (trong khi năm 2001 là 160 tỷ USD). Hậu quả là hàng loạt ngân hàng lão làng như Bear Stearns, Lehman Brothers, Washington Mutual… tuyên bố phá sản.
Tính cạnh tranh trong thị trường tài chính và tham vọng kiếm lợi từ việc cho vay thế chấp khiến nhiều ngân hàng mờ mắt và không dự đoán trước các rủi ro có thể xảy ra.
Việc “chạy đua cho vay” bởi miếng mồi ngon đang nóng từ thị trường chứng khoán và bất động sản đã vô tình dẫn các NHTM vào thế khó mang khi “bong bóng” nhà đất, chứng khoán vỡ tung do được “bơm tiền” quá mức.
Khi thị trường tài chính ngân hàng sụp đổ, cả thực tế và lý thuyết vĩ mô đều chứng minh, hiệu ứng Domino sẽ xảy ra nhanh chóng trên các thị trường tín dụng, chứng khoán, bất động sản, thương mại...
* Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đặc biệt giai đoạn từ cuối 2007 đến đầu năm 2013, hàng loạt ngân hàng trên thế giới công bố thua lỗ về kết quả hoạt động kinh doanh, mất khả năng thanh toán, nợ xấu vượt mức cho phép dẫn đến tình trạng các hàng loạt các ngân hàng bị mua lại và phá sản.
Rủi ro lãi suất:
Khái niệm:
Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất:
+ Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản Có và tài sản Nợ.
▪ Trường hợp 1: Kỳ hạn của tài sản có lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay, đầu tư dài hạn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo tăng lên, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn không đổi.
▪ Trường hợp 2: Kỳ hạn của tài sản có nhỏ hơn kỳ hạn của tài sản nợ: Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài để cho vay, đầu tư kỳ ngắn hạn. Rủi ro sẽ trở thành sự thật nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo không đổi, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư giảm xuống.
+ Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay:
▪ Trường hợp 1: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định để cho vay, đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ thực hiện vì chi phí lãi không đổi trong khi thu nhập lại giảm, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm.
▪ Trường hợp 2: Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi tăng theo lãi suất thị trường, trong khi thu nhập lãi không đổi, do đó lợi nhuận của ngân hàng giảm.
+ Do không có sự phù hợp về khối lượng giữa nguồn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay.
+ Do không có sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn vốn huy động được với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay.
+ Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế, dẫn đến vốn của ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay.
+ Ngoài ra, khi lãi suất trên thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản.
Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất đến hoạt động