Đề tài Hiện trạng rác thải nông thôn xã Vân Xuân, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc

Đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng tại các vùng nông thôn. Quá trình phát triển kèm theo những vấn đề môi trường nảy sinh. Hai vấn đề môi trường đáng quan tâm nhất là chất thải rắn và nước thải sinh hoạt. Chất thải rắn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống là chất thải sinh hoạt. Trong khi đó, nước thải sinh hoạt không kèm theo các biện pháp xử lý, đồng thời nước thải sinh hoạt thường lẫn nước thải bể phốt và nước thải chăn nuôi làm tính chất bị thay đổi, kéo theo những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sông nước, kênh rạch, đất đai, nơi tiếp nhận chúng. Do vậy, trước khi trở thành một vùng phát triển, để môi trường vùng nông thôn không bị ô nhiễm quá mức, thì phải giải quyết 2 bài toán quan trọng về chất thải rắn và nước thải sinh hoạt. Nghiên cứu cụ thể thực hiện tại xã Vân Xuân ven sông Phan nhằm xây dựng mô hình thí điểm về quy hoạch thu gom, xử lý chất thải rắn và nước thải sinh hoạt, với mục tiêu đem lại môi trường sống trong sạch cho cư dân trong xã.

doc23 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2677 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện trạng rác thải nông thôn xã Vân Xuân, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiện trạng chất thải rắn và nước thải xã Vân Xuân-Vĩnh Tường-Vĩnh Phúc Đặt vấn đề Đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng tại các vùng nông thôn. Quá trình phát triển kèm theo những vấn đề môi trường nảy sinh. Hai vấn đề môi trường đáng quan tâm nhất là chất thải rắn và nước thải sinh hoạt. Chất thải rắn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống là chất thải sinh hoạt. Trong khi đó, nước thải sinh hoạt không kèm theo các biện pháp xử lý, đồng thời nước thải sinh hoạt thường lẫn nước thải bể phốt và nước thải chăn nuôi làm tính chất bị thay đổi, kéo theo những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sông nước, kênh rạch, đất đai, nơi tiếp nhận chúng. Do vậy, trước khi trở thành một vùng phát triển, để môi trường vùng nông thôn không bị ô nhiễm quá mức, thì phải giải quyết 2 bài toán quan trọng về chất thải rắn và nước thải sinh hoạt. Nghiên cứu cụ thể thực hiện tại xã Vân Xuân ven sông Phan nhằm xây dựng mô hình thí điểm về quy hoạch thu gom, xử lý chất thải rắn và nước thải sinh hoạt, với mục tiêu đem lại môi trường sống trong sạch cho cư dân trong xã. Tổng quan Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý: Xã Vân Xuân có sông Phan chạy dọc theo chiều dài ven xã và kênh 10A, kênh 10B phục vụ cho tưới tiêu thì đi trong lòng xã. Nằm ở phía đông nam của huyện Vĩnh Tường, phía bắc giáp xã Tề Lỗ huyện Yên Lạc; phía nam giáp xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường; phía tây giáp xã Bình Dương, xã Vũ Di huyện Vĩnh Tường; phía đông giáp xã Yên Đồng huyện Yên Lạc. Cách trung tâm huyện 10km về phía nam. Là xã nhỏ thứ 3 trong 24 xã mà có dòng sông Phan chảy qua Địa hình của Vân Xuân tương đối bằng phẳng và hướng dốc dần từ đông bắc xuống tây nam. Hướng Đông, Đông Bắc với đường liên xã đi qua các thôn Xuân Húc 3 , Xuân Húc 4, thôn Đông hơi thoải về 2 phía. Ở đây tập trung buôn bán của xã và tập trung cơ quan hành chính, trường học của xã. Còn về hướng Nam và Tây Nam gần sông Phan thì tập trung nhiều ao hồ, trang trại chăn nuôi mô hình VAC Khí hậu thời tiết: Nhiệt độ trung bình trên địa bàn huyện là 23,60C, độ ẩm trung bình trong năm là 80%. Lượng mưa trung bình năm là 1.526mm, số ngày mưa trung bình năm là 133 ngày. Điều kiện tự nhiên của huyện đã và đang tạo nhiều thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp Điều kiện kinh tế - xã hội Đây là một trong những xã thuần nông của huyện Vĩnh Tường nguồn lực chủ yếu là đất đai, mặt nước, nguồn lao động dồi dào. Xã Vân Xuân gồm có 9 thôn với diện tích khoảng 334,85 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 68,33%. Trong đất nông nghiệp thì chủ yếu là làm ruộng và kết hợp làm ruộng và mô hình trang trại nhỏ chăn nuôi. Làm ruộng chủ yếu là cấy lúa 2 vụ và 1 vụ hoa màu (vụ màu chủ yếu là trồng ngô) khoảng 180ha (chiếm khoảng 78,67 % diện tích đất nông nghiệp). Do năng suất trồng ngô không cao cùng với giá cả tăng lên nhiều,… nên một số nông dân đã chuyển sang đi chợ và đi làm xa ( đi chợ xa ở Hà Nội, các vùng lân cận, đi buôn bán phế liệu, đi xây,…). Còn lại là đất chuyên lúa 33,34ha; đất một vụ lúa chiếm 1,95 ha; đất chuyên rau khoảng 1,82 ha. Mô hình trang trại chăn nuôi với quy mô vừa và nhỏ (15 – 30 con lợn và 1 - 4 ao cá) Mặt nước nuôi trồng thủy sản với các ao, hồ, đầm nuôi trồng thủy sản 11,7ha; Theo quy hoạch của xã đến năm 2013 sẽ có khu chăn nuôi tập trung với diện tích 5ha, đất trũng 1-2 vụ lúa cải tạo nuôi trồng thủy sản với diện tích 14ha. Diện tích đất nông nghiệp giảm xuống 5,4ha. Diện tích đất phi nông nghiệp tăng 5,4 ha, trong đó đất thổ cư tăng thêm 1,19 ha (0,4 %), từ 29,86ha (khoảng 8,9% tổng diện tích đất toàn xã) thành 31,05ha (khoảng 9,3% tổng diện tích toàn xã), đất bãi rác thải là 0,1ha. Về giao thông vận tải : Toàn xã được bê tông hóa gần 100%. Đường giao thông trong các thôn rộng từ 2-2,5m, có đường giao thông liên huyện rộng khoảng 3-3,5m. Về nguồn nhân lực : theo báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế - văn hóa – xã hội 6 tháng đầu năm 2009 thì xã Vân Xuân có 5160 dân. Có khoảng 45% dân số trong độ tuổi lao động, trong đó phần lớn lao động chuyên nông nghiệp, chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn nào (90%), một số nhỏ có trình độ sơ cấp và trung cấp (6%) và rất ít người có trình độ cao đẳng, đại học. Hiện tại khi nhàn rỗi trong sản xuất nông nghiệp nhiều người đã chuyển đổi sang ngành nghề khác như thu gom phế liệu, đi chợ, đi buôn để tăng phần thu nhập, một số khác thì chuyển hẳn sang làm các nghề này ( chiếm 10%). 2.Hiện trạng chất thải rắn 2.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn Nguồn phát sinh chất thải rắn của xã bao gồm 2 nguồn chính là sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Trong nông nghiệp thì đáng quan tâm là chất thải từ hoạt động chăn nuôi và từ hoạt động trồng trọt. Chăn nuôi với đàn trâu, bò khoảng 586 con, đàn lợn có1400 con và 9500 con gia cầm, 11,7 ha diện tích nuôi trồng thủy sản. Chăn nuôi sẽ làm phát sinh nước thải và phân gia súc, gia cầm. Phế thải nông nghiệp chủ yếu là rơm rạ, thân cây ngô. Ngoài ra chất thải rắn trong xã còn phát sinh từ chợ, trạm y tế xã, trường học, nhà trẻ, Ủy ban nhân dân xã. Xã có 2 trường học là trường tiểu học và trung học cơ sở Vân Xuân. Chợ tương đối lớn với khoảng 70-80 người buôn bán mỗi ngày. Nhà trẻ khoảng 20-30 trẻ, chưa có hình thức bán trú. Trạm y tế xã mới được đầu tư các trang thiết bị với khoảng 5-7 giường. 2.2. Thành phần chất thải rắn Là một trong những xã thuần nông của huyện nên thành phần rác sinh hoạt chủ yếu là chất hữu cơ dễ phân hủy khoảng 60% và plastic như nilong (trung bình 4-5 chiếc/ hộ/ngày, nhựa,… Đa số các hộ gia đình ở xã đều có chăn nuôi nên lượng chất thải hữu cơ dễ phân hủy thải ra hàng ngày đã giảm đi đáng kể. Chính bởi lý do này mà lượng chất hữu cơ dễ phân hủy quan sát các điểm đổ rác thải chỉ còn lại khoảng 20-30 %. Chất thải rắn bao gồm rất nhiều loại: nilong chiếm tỷ lệ lớn, rau, vỏ hoa quả, rác xây dựng, bao bì, xốp, nhựa, dép, giấy, hộp sữa, sành sứ, vỏ thủy tinh, trứng,.. Là vùng nông thôn nên lượng chất thải có thể tái chế thải ra ngoài bãi không nhiều, do họ đã bán cho những người thu nhặt rác. 2.3. Lượng chất thải rắn a. Lượng chất thải sinh hoạt Qua bảng điều tra (bảng ??) ngày 09/12/2009 của chúng tôi thì trung bình trong 1 ngày 1 người họ thải ra khoảng 0,31 kg ( cách tính này chúng tôi dựa trên điều tra 37 hộ đặc trưng nhất của xã). b. Lượng phế thải trồng trọt Diện tích đất dành cho nông nghiệp 228,81 ha/ 334,85 ha , chiếm 68,33% do vậy tính ra thì lượng phế thải từ nông nghiệp tạo ra là nhiều nhất. Diện tích đất trồng lúa 2 vụ và một vụ màu (chủ yếu trồng ngô) là 213,34 ha, diện tích đất trồng lúa 1 vụ là 1,95 ha, năng suất lúa bình quân của xã là 5,9 tấn thóc/ha. Theo Lê Văn Khoa – Nông nghiệp và môi trường, nxb giáo dục, 1999 cứ 1 tấn gạo tạo 2 tấn chất thải rắn từ cây lúa, theo kinh nghiệm của người nông dân cứ 1 tấn thóc thì máy ra được 0,7 tấn gạo. Lượng phế thải trên 1 ha lúa là 5,9*0,7*2 = 8,26 tấn/năm. Vậy tổng lượng phế thải từ cây lúa khoảng 3500 tấn/năm. Lượng phế thải từ cây ngô cũng khá lớn. Năng suất ngô bình quân là 4-5 tấn/ ha. Cứ 1 tấn ngô thì tạo ra 1 tấn chất thải là cây ngô và lõi ngô. Tổng lượng chất thải rắn từ cây ngô là khoảng 900 đến 1000 tấn/năm. Trung bình một ngày có khoảng 12 tấn chất thải rắn từ hoạt động trồng trọt. Ngoài ra chất thải rắn cho hoạt động trồng trọt còn có bao bì thuốc bảo vệ thực vật, phân bón,..với lượng nhỏ. c. Lượng phế thải chăn nuôi Trung bình 1 ngày thì một con trâu, bò thải ra 15kg phân , 1 con lợn thải 3kg phân/ ngày, 1 con ngan,vịt, gà thải trung bình 0,1kg/ ngày. Vậy lượng chất thải từ hoạt động chăn nuôi vào khoảng 10,55 tấn/ ngày. c. Lượng rác từ chợ Trung bình 1 ngày có khoảng 70-80 người buôn bán ở chợ. Ước tính đống rác từ chợ trong khoảng 10 ngày là khoảng 800kg. Bằng phép tính đơn giản tính được lượng rác thải bình quân một người bán thải ra trong một ngày là khoảng 1-1,14 kg/người/ngày. d. Lượng rác từ trạm y tế Lượng rác trung bình một ngày của trạm y tế khoảng 2 -3 kg. e. Lượng chất thải rắn do xây dựng Trong những năm gần đây Vân Xuân phát triển mạnh mẽ, cơ sở hạ tầng được xây dựng nâng cấp. Trung bình trong 1 năm toàn xã có 20 - 25 ngôi nhà kiên cố của nhân dân mọc lên, do vậy rác thải từ hoạt động xây dựng cũng đáng kể. Tuy nhiên rất khó có thể ước tính được lượng rác từ hoạt động này. 2.4. Hiện trạng thu gom, xử lý chất thải rắn Hầu hết các thôn trong xã đều được trang bị 1xe thu gom với dung tích khoảng 0,5 m3. Tuy nhiên chưa có đội thu gom rác thải, chỉ có thôn Trại là tổ chức được thu gom rác thải do ông Đỗ Văn Lắp 56 tuổi đi thu gom. Ông được trang bị quần áo, ủng, găng tay, khẩu trang, còn cuốc và xẻng thì thôn cho. Cứ hằng ngày ông Lắp gõ kẻng đi từng ngõ để thu rác, thường mất khoảng 1 buổi, cho nên ông vẫn có thể tham gia sản xuất như bình thường.Trung bình một ngày ông Lắp thu gom được khoảng 1 xe đầy rác sinh hoạt tương đương khoảng 200 kg. Rác thải từ các thôn khác thường thải bừa bãi ra ven sông, đường đi. Một số hộ thì đem đốt rác nilong hoặc phơi khô tất cả cùng rơm rạ vương vãi trong sân khi quét dọn để đốt, lượng tro sinh ra họ mang đi ủ phân. Đối với chất thải hữu cơ dễ phân hủy thì đa số người dân có thói quen là tận dụng thức ăn thừa cho gà, lợn những thứ còn lại sẽ đem đi ủ cùng phân chuồng, phần kia đem đi đổ ra bãi rác. Một số hộ có ý thức thì mang ra đổ ở bãi rác của xã (hay còn gọi là bãi rác gốc đa). Bãi rác của xã nằm ở cuối thôn Chùa trên đường ra đồng, có diện tích gần 1000m2 nhưng không có quy hoạch, không có người quản lý nên người dân thường đổ bỏ bừa bãi tràn ra đường đi. Bãi cách khu dân cư khoảng 250m, ở gần mặt nước, gần trang trại chăn nuôi. Do vậy bãi rác không đạt tiêu chuẩn, rất dễ làm ảnh hưởng nguồn nước. Phế thải nông nghiệp chủ yếu là rơm rạ, thân cây ngô, được dùng làm thức ăn cho chăn nuôi trâu, bò, nhất là vào mùa rét cỏ rất khan hiếm. Một số hộ đem đốt ngoài đồng ruộng làm phân bón. Một số ít sử dụng làm chất đốt. Chỉ duy nhất có nhà bác Tâm tận dụng rơm thừa để trồng nấm. Các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu vứt bừa bãi ngoài đồng ruộng. Một mặt do ý thức của người dân chưa cao, mặt khác, do chưa có bể chứa rác thải nguy hại ngoài đồng ruộng nên mới xảy ra tình trạng như vậy. Chất thải từ hoạt động chăn nuôi thường được ủ tại nhà, hoặc ngoài đường, đồng ruộng rồi đem bón ruộng. Các gia đình có trang trại chăn nuôi thì chất thải của lợn, gà, ngan, vịt thải trực tiếp xuống ao để nuôi cá. Ngoài ra mỗi thôn có khoảng 3-4 hộ làm bể biogas (thường từ 5 con lợn trở lên) để chứa phân từ chăn nuôi phục vụ cho nhu cầu chất đốt cuả gia đình. Rác chợ được đổ ở cuối góc chợ. Rác thải chợ trung bình khoảng 10 ngày mới được ban quản lý chợ thuê xe công nông thu gom nên bốc mùi hôi thối, gây mất mỹ quan trong chợ. Vì vậy thường người dân thường tụ tập buôn bán ngay ngoài đường xung quanh chợ, nhiều khi cản trở giao thông. Rác thải trạm y tế và rác thải xây dựng đổ ra bãi rác thải tự phát cùng với cả rác thải sinh hoạt. 2.5. Dự báo chất thải rắn Tỉ lệ tăng dân số hằng năm đạt 1,1%. Ước tính tỉ lệ người đi làm xa, đi học xa mỗi năm tăng 0,5% . Năm 2009 xã có số dân là 5160 người và khối lượng rác năm 2009 là gần 1680 tấn/ ngày bao gồm cả rác chợ (80 kg/ ngày). Theo nhiều chuyên gia cứ GDP tăng khoảng 1% thì lượng chất thải tăng 3 %. Đây chính là mặt trái trong hoạt động sản xuất sinh hoạt của con người. Năm Số dân Số dân đi làm xa lượng chất thải rắn khi lượng rác không đổi 0,31 kg/ người/ ngày Lượng chất thải rắn thực tế với GDP tăng 5% Lượng chất thải rắn thực tế với GDP tăng 10% 2010 5216.76 26.084 1609.1 1850.47607 2091.8 2011 5274.1444 26.371 1626.8 1870.8313 2114.9 2012 5332.1599 26.661 1644.7 1891.41045 2138.1 2013 5390.8137 26.954 1662.8 1912.21596 2161.6 2014 5450.1127 27.251 1681.1 1933.25034 2185.4 2015 5510.0639 27.55 1699.6 1954.51609 2209.5 2016 5570.6746 27.853 1718.3 1976.01577 2233.8 2017 5631.952 28.16 1737.2 1997.75194 2258.3 2018 5693.9035 28.47 1756.3 2019.72721 2283.2 2019 5756.5364 28.783 1775.6 2041.94421 2308.3 2020 5819.8583 29.099 1795.1 2064.4056 2333.7 Bảng : Ước tính chât thải rắn sinh hoạt đến năm 2020 Ngoài ra chất thải rắn từ các ngành khác như rác xây dựng, rác thải từ trạm y tế, chợ có thể sẽ tăng nhưng so với rác thải sinh hoạt thì tăng không nhiều. Đặc biệt rác thải từ chăn nuôi có thể tăng hoặc giảm nhưng nhiều khả năng là giảm do xu hướng phát triển thiên về hướng nâng cao ngành dịch vụ công nghiệp. 3. Hiện trạng nước thải sinh hoạt 3.1. Nguồn phát sinh nước thải Nước thải sinh hoạt phát sinh thông qua các hoạt động như ăn uống, tắm rửa, giặt giũ,.. của cư dân trong xã. Đặc biệt, đối với những hộ dùng bể vệ sinh tự hoại thì còn có lượng nước dùng cho vệ sinh hằng ngày.Thêm vào đó, hộ dân có chăn nuôi tại gia đình cũng làm tăng thêm lượng nước thải, làm nước thải sinh hoạt khi thải ra môi trường có lẫn cả nước thải chăn nuôi. Ngoài ra còn có lượng nước từ trạm y tế xã, trường học, Ủy ban thải ra hệ thống thoát nước thải sinh hoạt của thôn, xã. 3.2. Thành phần và tính chất nước thải Nước thải sinh hoạt không có nhiều thành phần độc hại như phenol, chất hữu cơ độc hại. Thành phần chủ yếu của nước thải sinh hoạt là chất rắn lơ lửng, tổng chất rắn,NO3- , PO43- các chất hữu cơ không độc hại, dầu, mỡ, các chất khoáng, BOD5, đặc biệt là colifoms Trong phân và nước tiểu người có thành phần N-P-K khá cao, hơn hẳn phân gia súc, nước thải và trong đất tự nhiên. Lượng nước chiếm tỷ lệ khoảng 70 - 85% khối lượng phân. Trong phân người lượng Carbon gấp 6 ÷ 10 lần lượng Nitơ (C/N = 6 ÷ 10), nếu so sánh với tỷ số C/N thích hợp cho quá trình sinh học trong khoảng 20 ÷ 30 thì C/N trong phân người là thấp hơn. Theo Dương Trọng Phỉ, 2003, ta tính được mỗi năm một hộ gia đình xã Vân Xuân có 5 người sẽ thải ra một lượng đạm tương đương với 25 kg urê tinh khiết hoặc 43 kg amoni sunfat (SA) tinh khiết, chưa kể lượng Kali và Photpho đi cùng. Nitơ trong nước tiểu nằm dưới dạng urê và amoni là dạng mà cây trồng dễ dàng hấp thu Tuy nhiên cũng dễ nhận thấy yếu tố này cũng là môi trường thuận tiện cho các loài vi khuẩn, giun sán và các loại mầm bệnh dễ dàng phát triển và lây lan các dịch bệnh. Lý do chính dẫn đến sự lây nhiễm bệnh có thể là do cách thức thu gom, quá trình vận chuyển, khả năng rơi vãi, vị trí tích trữ và phương pháp ủ phân và sự thận trọng vệ sinh của bản thân người dân. Ở đây, đáng chú ý là nước thải từ trạm xá có thể mang các mầm bệnh nguy hiểm đến sức khỏe con người. 3.3.Lượng nước thải Nước thải sinh hoạt trung bình môt người một ngày khoảng187 lít. Vậy toàn xã trung bình 1 ngày thải ra khoảng 964920 lít. Theo J.Aa. Hansen and J.C. Tjell, lượng phân thải mỗi người hằng ngày dao động vào khoảng 400 - 500 g hoặc xấp xỉ 0,06-0,08 m3/năm. Cũng theo tác giả trên, người trưởng thành mỗi năm thải ra chừng 400 - 500 lít nước tiểu (chứa 5 kg nitrogen, 0,4 kg phosphate và 0,9 kg posstasium) tương ứng với 50 - 60 lít phân (chứa 0,1 kg nitrogen, 0,2 kg phosphate và 0,2 kg posstasium). Với dân số xã khoảng 5160 thì mỗi ngày thải ra khoảng 2500kg phân người, xấp xỉ khoảng 1m3. Lượng nước tiểu thải ra một ngày khoảng 6360 lít ( chứa khoảng 70 kg nitrogen, 5,6 kg phosphate và 12,6 kg posstasium). Nước thải chăn nuôi trung bình của 1 hộ (không tính trang trại) trung bình là 0,073 m3 thì lượng nước thải trong 1 ngày của 1262 hộ trong xã là 92,126 m3 . Vậy tổng lượng nước thải trong 1 ngày của xã Vân Xuân là 964920 + 6360 +92126 = 1063406 lit = 1063,41 m3 Lượng nước thải từ trạm xá ước tính khoảng 0.2m3/ ngày. Lượng nước thải từ trường học, Ủy ban không lớn lắm và tính chất cũng không nguy hiểm nhiều như từ tram y tế, vì thế có thể bỏ qua. 3.4. Hiện trạng thu gom, xử lý nước thải Lượng nước thải( sinh hoạt + bể phốt + nước rửa chuồng trại) được dẫn xuống đường rãnh thoát nước dọc theo đường thôn rồi đổ ra kênh và cuối cùng đổ về sông Phan. Nước thải từ trạm xá cũng xả trực tiếp ra hệ thải ra hệ thống thoát nước thải sinh hoạt của thôn, xã. Các gia đình ko có hố ga trước khi dẫn nước thải ra ngoài rãnh nên lượng bùn đã chiếm mất 2/3 rãnh nên khi mưa to thì những thôn trũng như thôn Trại luôn bị úng. Cũng một phần do các ao trong thôn bị lấn chiếm làm của tư, đường kênh thoát nước không được khơi thông, khi chính quyền xã cho người dân đấu thầu các đầm, ao nuôi cá đúng con đường thoát nước nên ko có đường nước thoát gây ra ngập. 3.5. Dự báo xu thế Nước thải sinh hoạt gia tăng khi thu nhập của người dân có sự thay đổi. Tính toán tương tự như đối với chất thải rắn. Năm Số dân Số dân đi làm xa lượng nước thải tính khi lượng nước không đổi 0,187 lit/ người/ ngày lượng nước thải theo thực tế với GDP tăng 5% lượng nước thải theo thực tế với GDP tăng 10% 2010 5216.76 26.084 970.6564 1116.255 1261.853 2011 5274.1444 26.371 981.3337 1128.534 1275.734 2012 5332.1599 26.661 992.1283 1140.948 1289.767 2013 5390.8137 26.954 1003.042 1153.498 1303.954 2014 5450.1127 27.251 1014.075 1166.186 1318.298 2015 5510.0639 27.55 1025.23 1179.015 1332.799 2016 5570.6746 27.853 1036.508 1191.984 1347.46 2017 5631.952 28.16 1047.909 1205.096 1362.282 2018 5693.9035 28.47 1059.436 1218.352 1377.267 2019 5756.5364 28.783 1071.09 1231.753 1392.417 2020 5819.8583 29.099 1082.872 1245.303 1407.734 Lượng nước thải từ chăn nuôi có thể 4. Xây dựng mô hình thu gom, xử lý chất thải rắn và nước thải sinh hoạt xã Vân Xuân 4.1. Mô hình thu gom, xử lý chất thải rắn Lượng chất thải từ trồng trọt tương đối lớn. Sử dụng cho chăn nuôi trâu bò là hoàn toàn hợp lý. Có thể tính toán được lượng chất thải rơm rạ sử dụng cho đàn trâu bò 586 con. Theo kinh nghiệm của người dân, lượng rơm, rạ dùng cho 1 con trâu bò trong một năm khoảng 1 mẫu, tức là với số trâu bò như vậy cần khoảng 210,96ha. Như vậy đàn trâu bò của xã trong 1 năm cần lượng rơm rạ khoảng 1743 tấn, tức là khoảng gần 4,77 tấn chất thải rơm rạ trong một ngày. Lượng chất thải rắn còn lại có thể đem đốt ngoài đồng ruộng lấy phân gio, đun nấu, hoặc tiến hành ủ ngay tại ruộng (chát bùn hoặc phủ nilong ) bằng chế phẩm VIXURA sau 20-30 ngày là hoai mục có thể cày bừa. Diện tích còn lại không phục vụ cho chăn nuôi trâu bò là khoảng 217,67 ha. Trung bình khoảng 300kg chất hữu cơ/ 1 sào rơm rạ. Tính ra lượng hữu cơ để bón ruộng khoảng 235 tấn. Đây sẽ là nguồn phân bón hữu ích cho nông nghiệp, giúp người dân giảm bớt tiền mua phân bón. Đối với phế thải từ chăn nuôi có thể xây dựng bể biogas với những hộ nuôi từ 5 lợn trở lên thông qua hỗ trợ của chính quyền xã. Những hộ khác ủ phân cho hoai mục sử dụng làm phân bón cho cây trồng. Cần chú ý hót phân vào một đống trước khi rửa chuồng đối với chăn nuôi tại các hộ gia đình trong khu dân cư. Việc này sẽ làm giảm lượng phân ra cống rãnh, giảm cản trở dòng chảy. Rác thải từ trạm y tế phải được thu gom hợp đồng xử lý với công ty môi trường đô thị, không được đổ cùng với rác thải sinh hoạt. Cần xây bể chứa chất thải trong khuôn viên trạm, cứ định kỳ khoảng 3 tháng là đi thu gom 1 lần. Với chất thải nguy hại cần phải xây dựng các bể chứa ngoài đồng để người dân vứt bỏ các vỏ thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật,… vào bể chứa. Chất thải nguy hại thu gom và xử lý theo quy định như trả lại nhà máy hoặc chôn lấp an toàn. Đối với chất thải sinh hoạt cần tổ chức thu gom, quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Mặc dù hiện tại lượng chất thải hữu cơ trong rác thải sinh hoạt ở bãi rác tự phát và bãi rác của xã không nhiều, chỉ khoảng 20-30%. Do vậy hiện tại chưa cần phải phân loại rác. Tuy nhiên trong thời gian khoảng 5-10 năm tới khi mà kinh tế các hộ phát triển, chăn nuôi có xu hướng giảm thì chất thải sinh hoạt thải ra bãi rác sẽ có thành phần hữu cơ cao. Vì vậy tốt nhất là thực hiện phân loại rác ngay từ bây giờ. Mỗi gia đình có 2 dụng cụ đựng rác thành 2 loại: khô và ướt. Rác ướt vứt vào thùng không rò rỉ. Còn rác khô vứt vào sọt hở, hoặc vào bao tải tùy thuộc mỗi gia đình sử dụng. Rác chợ thu gom cùng với rác sinh hoạt hằng ngày. Ban quản lý chợ hợp đồng với người thu gom rác để vận chuyển rác đi. Mức phí như khi họ thuê công nông chở đi. Xây bể chứa rác thải thành 2 ngăn, một n
Luận văn liên quan