Đề tài Hiện trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp tại Việt Nam

Tại Việt Nam thì nông nghiệp hiện chiếm 47,5% tỷ trọng sản xuất với hơn 22 triệu lao động, trong đó có tới 10 triệu nông hộ với tổng diện tích đất nông nghiệp xấp xỉ 700.000 ha. Đây là một thuận lợi và cũng là thách thức của ngành nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập ngày càng sâu rộng. Những năm qua, ngành nông nghiệp vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng (tăng mạnh về số lượng, sản lượng cây trồng, vật nuôi). Đơn cử, năm 2013, tổng giá trị kim ngạch XK nông nghiệp của Việt Nam đạt 28 tỉ USD, là một trong 15 nước XK nông sản hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, do phát triển theo chiều rộng nên hiệu quả đối với nông dân và đất nước còn hạn chế. Thực tế này đòi hỏi phải chuyển dịch mạnh sang phát triển theo chiều sâu (nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng nông sản). Và chìa khóa thành công hiện giờ của nước ta chính là việc áp dụng KHCN trong nông nghiệp sao cho Nông nghiệp là ngành mũi nhọn trên trường quốc tế.

docx17 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hiện trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Nội Vụ Học Viện Hành Chính Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh a & œ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Đề tài : HIỆN TRẠNG ỨNG DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM GV: Th.s Trần Minh Phong Lớp: KS14-XH Nhóm thực hiện : Nhóm 6 1.Hoàng Cao Sáng 2.Rlan Phước 3.Võ Thị Ngọc Huyền 4.Nguyễn Thị Hằng 5.Trần Ngọc Hải 6.Vũ Thị Thương MỤC LỤC LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI THÀNH TỰU CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP. Thành tựu trong Công nghệ sinh học Thành tựu trong nghệ cao KHÓ KHĂN CỦA VIỆC UD KHCN TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN TRÊN BIỆN PHÁP Biện pháp ngắn hạn Biện pháp dài hạn Đề xuất của nhóm 6 cho vấn đề UD KHCN trong nông nghiệp tại Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO Các từ viết tắt sử dụng trong bài: KHCN: Khoa học công nghệ TW : Trung ương UD: Ứng dụng DN: doanh nghiệp NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn CNSH : Công nghệ sinh học LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tại Việt Nam thì nông nghiệp hiện chiếm 47,5% tỷ trọng sản xuất với hơn 22 triệu lao động, trong đó có tới 10 triệu nông hộ với tổng diện tích đất nông nghiệp xấp xỉ 700.000 ha. Đây là một thuận lợi và cũng là thách thức của ngành nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập ngày càng sâu rộng. Những năm qua, ngành nông nghiệp vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng (tăng mạnh về số lượng, sản lượng cây trồng, vật nuôi). Đơn cử, năm 2013, tổng giá trị kim ngạch XK nông nghiệp của Việt Nam đạt 28 tỉ USD, là một trong 15 nước XK nông sản hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, do phát triển theo chiều rộng nên hiệu quả đối với nông dân và đất nước còn hạn chế. Thực tế này đòi hỏi phải chuyển dịch mạnh sang phát triển theo chiều sâu (nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng nông sản). Và chìa khóa thành công hiện giờ của nước ta chính là việc áp dụng KHCN trong nông nghiệp sao cho Nông nghiệp là ngành mũi nhọn trên trường quốc tế. Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), trong giai đoạn 2001-2011, các hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đóng góp trực tiếp vào GDP của Ngành khoảng 35%. Năng suất nhiều loại cây trồng, vật nuôi đã tăng đáng kể và đạt mức tiên tiến của thế giới như lúa, cà phê, cao su,... Tuy nhiên, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp vẫn còn hạn chế. Chính vì thế mà việc xem xét hiện trạng của UD KHCN trong nông nghiệp để thấy những vấn đề còn tồn tại, từ đó có những biện pháp kịp thời cũng như dài hạn. THÀNH TỰU CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG NÔNG NGHIỆP. Thành tựu trong Công nghệ sinh học Ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) trong lĩnh vực nông nghiệp được coi là giải pháp đột phá xây dựng nền nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện theo hướng hiện đại. Vào những năm 70, hàng loạt giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao được tạo ra bằng CNSH đã được đưa vào sản xuất. Những giống lúa này đã làm chuyển được vụ lúa chiêm dài ngày, ổn định, góp phần tăng sản lượng lúa lên nhanh chóng. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước, vì vậy công tác nghiên cứu và ứng dụng CNSH vào sản xuất lúa được xem là yếu tố quyết định giúp cải tạo các giống lúa, nâng cao sản lượng và chất lượng lúa gạo để ứng phó với biến đổi khí hậu và phục vụ xuất khẩu. Do đó, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã tập trung nghiên cứu giải mã gen các giống lúa có khả năng chịu nhiễm mặn mà vẫn đạt năng suất cao, kháng bệnh, có phẩm cấp gạo cao. Viện đã tìm được 30 dòng lúa đạt tiêu chuẩn trên đưa vào khảo nghiệm, đánh giá trên đồng ruộng. Ngoài ra, Viện còn thành công với các nghiên cứu chuyển nạp gen tạo lúa kháng hạn, giàu vi chất dinh dưỡng. Ngoài cây lúa, Đồng bằng sông Cửu Long còn là vựa trái cây lớn của cả nước. Trước thực tế đó, Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam đã tập trung hướng nghiên cứu CNSH vào việc phát triển các loại cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao. Trong đó nổi bật nhất là công nghệ nhân giống cây có múi (cam, chanh, quýt, bưởi) sạch bệnh bằng kĩ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng. Bằng kĩ thuật này, các nhà khoa học đã tạo ra được những giống cây có múi không bị nhiễm bệnh vàng lá greening (VLG) và một số bệnh do virus gây hại. Hoặc xử lí chiếu xạ bằng tia gama để thay đổi cấu trúc gen nhằm tạo ra những loại cây đặc sản có múi không hạt. Nhờ những phương pháp này mà Viện đã chuyển giao cho nhiều nhà vườn ở Đồng bằng sông Cửu Long nhiều giống cây trồng sạch bệnh, năng suất cao, sản phẩm đồng đều và người nông dân có thể chủ động được thời vụ trồng, thu hoạch. Viện cũng đang tiến hành các đề tài nghiên cứu lớn, trong đó đáng chú ý có đề tài xác định tác nhân gây bệnh chổi rồng trên nhãn bằng kĩ thuật sử dụng marker phân tử để nhân đoạn ADN định danh, hay đề tài phân loại tác nhân gây bệnh và nghiên cứu lai xa giữa giống xương rồng quả màu vàng với giống thanh long ruột trắng để tạo ra giống thanh long ruột vàng có hàm lượng carotenoids cao giúp chống được bệnh lão hóa ở người. Tại Tp. Hồ Chí Minh, Trung tâm Công nghệ Sinh học Tp. Hồ Chí Minh ra đời vào năm 2004 với tổng kinh phí đầu tư xây dựng khoảng 100 triệu USD. Bước đầu, Trung tâm đã đạt được một số kết quả trong ứng dụng CNSH vào lai tạo giống hoa lan, sưu tập và định danh hơn 100 giống lan rừng Việt Nam quý hiếm; nghiên cứu thành công bộ Kit PCR phát hiện bệnh virus; nghiên cứu ứng dụng thành công hệ thống ngập chìm tạm thời trong nhân giống cấy mô thực vật có ưu thế vượt trội về số lượng cây con, tỉ lệ cây sống và rút ngắn thời gian; nghiên cứu về các loại vacxin ngừa bệnh gan thận mủ trên cá tra bằng công nghệ tái tổ hợp gen, gây đột biến; nghiên cứu ứng dụng công nghệ tế bào động vật để hoàn thiện quy trình tạo phôi bò bằng phương pháp thụ tinh in vitro Năm 2007, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao rộng hơn 80ha được thành lập với mục tiêu chuyển giao đến thực tế các mô hình tiến bộ khoa học kĩ thuật nông nghiệp. Hiện nay, 100% diện tích dành cho các nhà đầu tư đã được lấp đầy với 14 dự án. Bước đầu, tại đây đã chuyển giao thành công một số mô hình nuôi cấy mô giống lan quý, giống chuối đặc sản, giám định bệnh bằng CNSH phân tử, chuyển gen kháng bệnh trên cây cà chua...  Bên cạnh việc nghiên cứu lai tạo các giống cây trồng, các nhà khoa học Việt Nam cũng nghiên cứu ứng dụng các thành quả của CNSH vào sản xuất phân bón hữu cơ nhằm hướng đến nền nông nghiệp xanh bền vững. Điển hình như Công ty Cổ phần Thiên Sinh và Công ty TNHH Hữu cơ là hai đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ lên men vi sinh để sản xuất các loại phân bón hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh cung cấp dưỡng chất cho cây trồng, góp phần cải tạo đất, bảo vệ môi trường. Hiện nay, mỗi năm, hai đơn vị này cung cấp cho thị trường hàng trăm nghìn tấn phân bón hữu cơ chất lượng cao các loại, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất trong nước, đặc biệt là khu vực phía Nam và dành một phần để xuất khẩu. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, đến hết năm 2010, Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực nông nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 đã phê duyệt đưa vào thực hiện được 90 nhiệm vụ khoa học công nghệ (78 đề tài và 12 dự án sản xuất thử nghiệm), trong đó có 35 đề tài kết thúc năm 2010. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát khẳng định, các kết quả nghiên cứu đã tạo ra hoặc tiếp nhận và làm chủ được một số CNSH hiện đại đưa vào ứng dụng hiệu quả chủ yếu tập trung ở những lĩnh vực chính như chuyển gen mang tính trạng tốt vào giống cây trồng, vật nuôi nhằm tạo ra những giống có năng suất cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, có khả năng chống chịu dịch bệnh hoặc tạo ra các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng và vật nuôi. Công nghiệp hóa trong nông nghiệp trong trồng trọt cơ giới hóa từ khâu chuẩn bị đến khâu thu hoạch với sản phẩm máy cấy hiện đại như MC 6-250, MC-08, đến máy làm đất và máy đập liên hoàn. Việc áp dụng giống mới và các quy trình canh tác tien tiến chương trình “ 3 giảm 3 tăng” IPM, GAP được đẩy mạnh. Chương trình “3 giảm 3 tăng” được áp dụng tại tỉnh bình định thời gian qua mang lại hiệu quả thiết thực giúp tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa. Năng suất lúa cao hơn giá thành sản xuất giảm, giảm thất thoát sau thu hoạch, giúp hạn chế sâu bệnh, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhiều địa phương đã ứng dụng CNSH vào trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử như việc triển khai 14 đề tài chọn tạo giống cây trồng nông, lâm nghiệp bằng phương pháp chỉ thị phân tử đã chọn tạo được 7 giống lúa chịu hạn, 2 giống lúa kháng đạo ôn, 4 giống lúa kháng rầy nâu, 2 giống lúa thơm chất lượng cao, 2 giống chè có triển vọng về năng suất, chất lượng, 8 giống bông kháng bệnh xanh lùn... Trong lĩnh vực chăn nuôi, các kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được môi trường bảo quản tinh dịch dài ngày, cải tiến được các quy trình công nghệ tạo phôi, cấy truyền phôi, đông lạnh phôi lợn và bò trong ống nghiệm. Việc sử dụng tinh nhân tạo giúp bò trưởng thành tăng từ 180kg/con lên 250-300kg/con, tỷ lệ xẻ thịt tăng 1,5 lần. Nông dân ở nhiều địa phương còn ứng dụng CNSH trong ủ, chế biến thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm để tận dụng các phế phẩm nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào.. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, việc ứng dụng CNSH cũng đạt được những thành công lớn. Điển hình như Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đã thành công việc nghiên cứu gia hóa tôm sú (là quá trình khép kín vòng đời tôm sú bằng cách đưa tôm sú tự nhiên về nuôi bằng các biện pháp CNSH để trở thành tôm sú bố mẹ) để sản xuất tôm sú sạch bệnh, mở ra triển vọng sản xuất số lượng lớn nguồn tôm giống sạch bệnh, phục vụ ngành công nghiệp nuôi tôm xuất khẩu. Với cá tra, CNSH đã can thiệp khá sâu rộng, từ khâu chọn giống thế hệ bố mẹ làm nguồn sản suất cá tra giống tốt, đến việc nghiên cứu về di truyền tính trạng kháng bệnh gan thận mủ tạo con giống có độ tăng trưởng cao, sạch bệnh, sản phẩm an toàn. công nghệ sinh sản nhân tạo một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao( tôm sú, tôm he, cá tra, cá ba sa..) đã tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong ngành nuôi trồng thủy sản. Trung tâm quốc gia thủy sản nước ngọt nam bộ thuộc viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 ( xã an thái trung, huyện cái bè, tỉnh tiền giang) đã thành công trong việc sản sinh nhân tạo cá bông lau. Năm 2004 trung tâm nuôi vỗ đàn cá bông lau bố mẹ ở ao hồ. Năm 2005 cá có dấu hiệu sinh sản nhưng tỉ lệ thành công thấp dướ 5%, đến năm 2006 tỉ lệ cá nuôi sinh sản đạt 25%. Đây là loài cá da trơn quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, sống nhiều ở sông mekong nhưng do đánh bắt bừa bãi nên ngày càng khan hiếm. Ngoài ra, Viện còn thành công trong nhiều nghiên cứu khác như ứng dụng sinh học phân tử trong chẩn đoán bệnh các loài thủy sản, sản xuất tôm càng xanh toàn đực, nâng cao chất lượng sinh sản cá chẻm nhân tạo và nghiên cứu chế phẩm vi sinh sử dụng trong phòng bệnh trên ấu trùng tôm. Viện Khoa học Kĩ thuật Nông nghiệp miền Nam cũng là đơn vị đạt được nhiều kết quả nghiên cứu trên động vật như xác định tính trạng gen được ứng dụng trong chọn giống vật nuôi, trong kiểm soát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, nghiên cứu ứng dụng cải thiện sinh sản để sản xuất thế hệ bò con có giới tính theo định hướng chăn nuôi, tạo phôi nuôi trong bụng mẹ để giải bài toán thích nghi tốt hơn... góp phần phát triển chăn nuôi tại khu vực Tp. Hồ Chí Minh. Thành tựu trong nghệ cao Công nghệ cao (CNC) được áp dụng trong nông nghiệp nước ta và bước đầu đạt thành tựu nhất định. Trong đó, lĩnh vực đang ƯDCNC khá hiệu quả trong sản xuất là ngành trồng hoa. Đi đầu việc UD CNC trong chọn, lai tạo giống, chuyển giao công nghệ đến với người dân là các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu rau quả. Đơn vị này đã thành công với mô hình trồng lan CNC thông qua việc đầu tư thiết bị nhà lưới hiện đại dạng kín, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển thuận lợi. Với quy mô khoảng 4.400m2, Viện cung cấp khoảng 131.000 cây, đáp ứng 21% nhu cầu về giống lan Hồ Điệp của thị trường và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Lãi thu được từ sản xuất lan Hồ Điệp đạt khoảng 280-540 triệu/1.000m2. Đặc biệt, một số mô hình cho lãi từ 700 triệu - 1 tỷ đồng/1.000m2 như Công ty Cửu Long, Trung tâm Ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh Hà Nội cũng là địa phương đi đầu trong triển khai mô hình trồng hoa CNC, từng bước tạo dựng thương hiệu trên thị trường hoa cao cấp. Một trong số đó là Công ty TNHH Flora Việt Nam. Đến nay, đơn vị này đã có khu sản xuất rộng 10.000m2, gồm hệ thống nhà kính, nhà lưới, máy móc bảo đảm trồng được nhiều loại hoa. Bà Bùi Bích Hường, Giám đốc công ty cho biết, trồng hoa CNC là hướng đi khá mới ở nước ta. Mỗi năm, Flora Việt Nam đưa ra thị trường hàng triệu cành hoa lan Hồ Điệp, lan Vũ nữ và hàng chục vạn bông ly, loa kèn, đem lại doanh thu khoảng 10 tỷ đồng/năm, tạo công ăn việc làm cho 100 lao động thường xuyên. Ngoài Hà Nội, Đà Lạt (Lâm Đồng), TP Hồ Chí Minh hiện cũng có tới 1.663ha trồng rau an toàn ứng dụng CNC, sản lượng đạt khoảng 30.000 tấn/năm. Trong số đó, diện tích rau sản xuất trong nhà lưới cho giá trị sản lượng 120-150 triệu đồng/ha; hơn 700ha trồng hoa và cây cảnh. Các hộ áp dụng CNC trong sản xuất hoa, cây cảnh đem lại thu nhập 600 triệu - 1 tỷ đồng/ha/năm. KHÓ KHĂN CỦA VIỆC UD KHCN TRONG NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM Từ nhiều năm nay, ứng dụng KHCN vẫn được xem là một trong những điểm yếu của ngành nông nghiệp, cả trong sản xuất và chế biến. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho chất lượng, giá trị nông sản còn thấp, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh. Trong đó, khó khăn với DN là quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, cơ chế chính sách thiếu nhất quán, nền hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả... Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp còn chậm. Hầu hết các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Năng suất cây trồng thường mới đạt khoảng 70% mức bình quân chung của thế giới. Công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý thủy nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng giống, vật tư chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa nông nghiệp. Công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình hội nhập; Bên cạnh việc ứng dụng KHCN hạn chế, đáng chú ý nữa là cho tới nay, vấn đề cơ giới hóa nông nghiệp cũng chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đầu ra cho máy nông nghiệp Việt Nam rất rộng mở, không chịu nhiều sức ép như những ngành khác thì suốt nhiều năm nay, ngành cơ khí Việt Nam lại chưa chú trọng đến việc chế tạo máy nông nghiệp. Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam (ngày 11-4), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đánh giá: Là một quốc gia nông nghiệp, song suốt 10 năm qua, các sản phẩm cơ khí máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp còn ít. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương đặc biệt quan tâm rà soát, xây dựng chiến lược quy hoạch của ngành cơ khí, xác định các lĩnh vực, sản phẩm cơ khí ưu tiên, nhất là sản xuất máy cho phục vụ cho phát triển nông nghiệp, khai thác đánh bắt thủy hải sản, chế biến thủy sản,... Để đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay, các DN nông nghiệp rất khó tiếp cận được nguồn vốn lớn, dài hạn với lãi suất thấp. Chính vì vậy, DN nông nghiệp luôn bị yếu thế do công nghệ thấp, khó cạnh tranh, chi phí cao dẫn đến lợi nhuận thấp và không có kinh phí để mở rộng, nghiên cứu công nghệ mới hơn. Hơn nữa, tiêu chuẩn nước thải trong chăn nuôi lại quá cao dẫn đến các DN đầu tư vào lĩnh vực này còn rụt rè. hầu hết các DN chưa biết hoặc chưa tiếp cận được hỗ trợ của Nhà nước về phát triển KHCN. Việc tiếp cận hồ sơ để được hưởng ưu đãi còn phức tạp nên đến năm 2014, cả nước mới có 132 DN được công nhận là DN KHCN, trong đó có 18 DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thêm vào đó, điểm yếu trong nghiên cứu, chuyển giao KHCN lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là thiếu sự liên kết giữa DN với các đơn vị nghiên cứu và nông dân do chưa có cơ chế của Nhà nước tác động mạnh. Việc sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn nhỏ lẻ, thị trường tiêu thụ một số sản phẩm nông nghiệp không ổn định, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế sản xuất một số sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư, chưa có nhiều công nghệ cao trong nông nghiệp và mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với quy mô lớn tại Việt Nam. Mặt khác, ngân sách nhà nước có hạn, thiếu kinh phí để nghiên cứu, nhập khẩu và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp. Chưa có nhiều doanh nghiệp đăng ký công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chưa có hệ thống dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả như đã nêu, nhưng so với yêu cầu phát triển, KH-CN nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; thị trường KH-CN còn kinh doanh; đầu tư cho KH-CN còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Phân bổ ngân sách nhà nước cho KH-CN chưa hợp lý, kinh phí cấp để thực hiện nhiệm vụ KH-CN có nhiều bất cập, thường xuyên giao chậm; cơ cấu chi chưa thực sự phù hợp (ước tính có khoảng 20% tiền dành cho KH-CN thực chất đầu tư cho hoạt động sáng tạo của các nhà nghiên cứu, còn 80% nằm ở khâu đầu tư gián tiếp). Quản lý tài chính quốc gia về KH-CN có nhiều bất cập. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lo chi đầu tư phát triển khoảng 44%, khoảng 56% còn lại một phần là lương sự nghiệp của Bộ Tài chính, phần chi nghiên cứu do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì (Trong đầu tư phát triển, Trung ương: 49%, địa phương: 51%. Trong chi cho vấn đề nghiên cứu, Trung ương: 75%, địa phương: 25%). Đây là bài toán cần nghiên cứu tính toán lại. Chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt động KH-CN, đặc biệt từ doanh nghiệp. Ở các nước phát triển, phần lớn kinh phí đầu tư cho hoạt động KH-CN đến từ các doanh nghiệp, còn nhà nước chỉ chi khoảng 20% - 30%. Kinh phí từ ngân sách nhà nước chủ yếu chi cho các nghiên cứu cơ bản và các đề án có tầm quan trọng chiến lược. Ở nước ta do năng lực các doanh nghiệp còn nhỏ, nhu cầu đổi mới sáng tạo để tồn tại và phát triển chưa cao nên không nhiều doanh nghiệp tự ý thức được việc này. Mặc dù theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2013), doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận để tái đầu tư cho R&D (research & development - nghiên cứu và phát triển) nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Cơ cấu nguồn nhân lực quốc gia bất hợp lý. Theo kết quả tổng hợp từ Điều tra nghiên cứu và phát triển 2014 (Bản tin Chiến lược Phát triển, số 5+6+7/2015 của Cục Thông tin KH-CN quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ), năm 2013 Việt Nam có 164.744 người hoạt động trong lĩnh vực R&D, trong đó ở khu vực nhà nước có 139.531 người, chiếm tới 83%; ngoài nhà nước: 20.917 người, chiếm 14%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: 4.296 người, chiếm 3%. Với cơ cấu như vậy, cần phải thay đổi mới thu hút được các nguồn lực cho hoạt động KH-CN. Ở các trường đại học có 74.217 người, chiếm 45%, các viện/trung tâm nghiên cứu: 37.481 người, chiếm 23%, số còn lại ở các cơ sở khác. Với cơ cấu như vậy, nguồn ngân sách cũng cần phải cơ cấu lại mới tránh được tình trạng lãng phí chất xám và sử dụng nguồn nhân lực không hiệu quả. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRÊN là: Thứ nhất, về mặt thể chế và mô hình. Trong thời gian rất dài chúng ta phát triển kinh tế theo chiều rộng, mà đã phát triển kinh tế theo chiều rộng thì thường sẽ thâm dụng vốn, sử dụng lao động giá rẻ và trình độ thấp, xuất khẩu tài nguyên chế biến thô là chính, trình độ sử dụng công nghệ thấp. Mô hình này không tạo ra thị trường và động lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng KH-CN. Đây là vấn đề “then chốt”, vì với hệ thống sản xuất như thời gian vừa qua không thể thúc đẩy liên kết giữa cung và cầu cho KH-CN được. Cầu của KH-CN hiện nay có thể kể tới mấy loại: Từ phía các cơ quan của Đảng, Nhà nước sử dụng KH-CN, từ phía doanh nghiệp, từ sản xuất, kinh doanh và từ các tổ chức KH-CN. Việc chu
Luận văn liên quan