Chúng tôi nghiên cứu vai trò của quản trị rủi ro tài chính trong công ty thông qua việc sử dụng
các công cụ tài chính phái sinh ảnh hưởng đến hiệu quả dài hạn của mẫu được chọn là các công ty
khai khoáng của Australian bắt đầu phát hành cổ phiếu lần đầu trong giai đoạn từ năm 1994 đến
năm 2004. Chúng tôi t ìm được bằng chứng rằng những công ty sử dụng các công cụ phái sinh nhìn
chung thường có kết quả tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh trong giai đoạn 5
năm được niêm yết. Những công ty sử dụng công cụ phái sinh mà không có độ nhạy cảm rủi ro cảm
luôn tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh, mà những công ty này đã lựa chọn
việc không phòng ngừa cho các rủi ro tỷ giá hối đoái dễ xảy ra. Hơn nữa, trong số những công ty sử
dụng các công cụ phái sinh, những công ty được quản lý để loại trừ độ nhạy cảm rủi ro cảm của t ỷ
giá hối đoái có xu hướng thực hiện tốt hơn những công ty có phòng ngừa rủi ro mà từ bỏ những rủi
ro tỷ giá khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi bổ sung những lý thuyết hiện hữu mà đang tranh
cãi về việc nâng cao vai trò giá trị của việc phòng ngừa rủi ro của công ty thông qua việc sử dụng
các công cụ tài chính phái sinh.
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2001 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả phòng ngừa rủi ro của các công cụ phải sinh và hiệu suất IPO trong dài hạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Bộ môn Tài Chính Quốc Tế
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN SỐ 1:
HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA RỦI RO CỦA CÁC CÔNG
CỤ PHÁI SINH VÀ HIỆU SUẤT IPO TRONG DÀI HẠN
Người hướng dẫn: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Người thực hiện: Nhóm 4 – môn Quản trị rủi ro
Lớp : TCDN Ngày 1 – Cao học Khóa 20
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 08 năm 2012
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 2
BÀI DỊCH BÀI NGHIÊN CỨU :
HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA RỦI RO CỦA CÁC CÔNG CỤ PHÁI
SINH VÀ HIỆU SUẤT IPO TRONG DÀI HẠN
Hoa Nguyen School of Accounting,
Economics and Finance Faculty of Business and Law Deakin
University 225 Burwood Highway Burwood VIC 3125 Australia
Ming-Hua Liu* Faculty of Business and Law Auckland
University of Technology Auckland New Zealand
Tóm tắt
Trong bài viết này chúng tôi nghiên cứu vai trò của quản trị rủi ro tài chính trong công ty thông
qua việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh ảnh hưởng đến hiệu quả dài hạn của mẫu được
chọn là các công ty khai khoáng của Australian bắt đầu phát hành cổ phiếu lần đầu trong giai đoạn
từ năm 1994 đến năm 2004. Chúng tôi tìm được bằng chứng rằng những công ty sử dụng các công
cụ phái sinh nhìn chung thường có kết quả tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh
trong giai đoạn 5 năm được niêm yết. Những công ty sử dụng công cụ phái sinh mà không có độ
nhạy cảm rủi ro cảm rủi ro luôn tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh, những
công ty này đã lựa chọn việc không phòng ngừa cho các rủi ro tỷ giá hối đoái dễ xảy ra. Hơn nữa,
trong số những công ty sử dụng các công cụ phái sinh, những công ty kiểm soát được việc loại trừ
những rủi ro tỷ giá hối đoái có xu hướng thực hiện tốt hơn những công ty có phòng ngừa rủi ro mà
từ bỏ những rủi ro tỷ giá. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi bổ sung những lý thuyết hiện hữu đang
tranh cãi về việc nâng cao vai trò của việc phòng ngừa rủi ro cho công ty thông qua việc sử dụng
các công cụ tài chính phái sinh.
Từ khóa: những công cụ tài chính phái sinh, IPO, hiệu quả dài hạn, các công ty khai khoáng
của Australian.
Lời cảm ơn: Chúng tôi muốn cảm ơn Bill Dimovski vì đã cung cấp các dữ liệu về IPO. H.
Nguyên cũng tỏ lòng biết ơn việc hỗ trợ tài chính từ Trung tâm nghiên cứu sát nhập thị trường
(China and Emerging Markets Reseach Centre – CEMRC).
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 3
Tóm tắt
Chúng tôi nghiên cứu vai trò của quản trị rủi ro tài chính trong công ty thông qua việc sử dụng
các công cụ tài chính phái sinh ảnh hưởng đến hiệu quả dài hạn của mẫu được chọn là các công ty
khai khoáng của Australian bắt đầu phát hành cổ phiếu lần đầu trong giai đoạn từ năm 1994 đến
năm 2004. Chúng tôi tìm được bằng chứng rằng những công ty sử dụng các công cụ phái sinh nhìn
chung thường có kết quả tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh trong giai đoạn 5
năm được niêm yết. Những công ty sử dụng công cụ phái sinh mà không có độ nhạy cảm rủi ro cảm
luôn tốt hơn những công ty không sử dụng công cụ phái sinh, mà những công ty này đã lựa chọn
việc không phòng ngừa cho các rủi ro tỷ giá hối đoái dễ xảy ra. Hơn nữa, trong số những công ty sử
dụng các công cụ phái sinh, những công ty được quản lý để loại trừ độ nhạy cảm rủi ro cảm của tỷ
giá hối đoái có xu hướng thực hiện tốt hơn những công ty có phòng ngừa rủi ro mà từ bỏ những rủi
ro tỷ giá khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi bổ sung những lý thuyết hiện hữu mà đang tranh
cãi về việc nâng cao vai trò giá trị của việc phòng ngừa rủi ro của công ty thông qua việc sử dụng
các công cụ tài chính phái sinh.
1. Giới thiệu:
Trong bài nghiên cứu này, bằng cách sử dụng mẫu là các công ty khai khoáng của Australia
mới phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO), chúng tôi cung cấp những bằng chứng rằng
việc quản trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp thông qua hiệu quả của việc sử dụng các công cụ
tài chính phái sinh có thể là yếu tố tiềm năng của hiệu quả IPO trong dài hạn. Đặc biệt, chúng tôi
kiểm tra xem liệu những công ty sử dụng các công cụ phái sinh có đạt được tỷ suất sinh lợi từ
chứng khoán (stock returns) cao hơn so với các công ty không sử dụng các công cụ phái sinh trong
thời gian 5 năm sau khi niêm yết hay không. Chúng tôi không chỉ tập trung vào sự khác biệt giữa
những công ty sử dụng và không sử dụng các công cụ phái sinh, chúng tôi cũng nhận ra thị trường
sẽ thưởng cho các công ty sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro hiệu quả, không chỉ cho những
công ty thực hiện phòng ngừa rủi ro. Chúng tôi khẳng định những công ty phòng ngừa rủi ro hiệu
quả bằng cách sử dụng các công cụ phái sinh và làm giảm rủi ro tỷ giá hối đoái một cách thành
công đến một mức độ không phát hiện được. Mặt khác, những công ty thực hiện phòng ngừa rủi ro
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 4
không hiệu quả là các công ty cũng sử dụng các công cụ tài chính phái sinh, nhưng vẫn từ bỏ những
yếu tố rủi ro tỷ giá quan trọng khác.
Chúng tôi mạnh dạng phỏng đoán rằng hiệu quả của việc phòng ngừa rủi ro trong doanh
nghiệp có thể giải thích hiệu quả IPO dài hạn được bắt nguồn từ những lý thuyết phòng ngừa rủi ro
cơ bản. Trong khuôn khổ lý thuyết được đưa ra bởi Smith và Stulz (1985) và Mayers and Smith
(1987), miễn là tồn tại các mâu thuẫn của thị trường như thuế và các chi phí khủng hoảng tài chính
hiện hữu, việc bảo hiểm rủi ro có thể nâng cao giá trị doanh nghiệp bằng việc cắt giảm các chi phí
biến đổi liên quan đến tính không ổn định trong thu nhập và dòng tiền của công ty. Điều cốt lõi của
những tranh cãi này là việc phòng ngừa rủi ro tài chính làm ổn định thu nhập và dòng tiền, do đó nó
làm giảm những rủi ro liên quan cho công ty lựa chọn việc phòng ngừa rủi ro cho các rủi ro tài
chính của họ.
Khả năng để tránh các rủi ro liên quan tiêu biểu cho một nguồn tài liệu quan trọng trong việc
làm tăng giá trị của công ty, khi một số kết quả không mong muốn có xu hướng xảy ra trong điều
kiện khủng hoảng tài chính. Đầu tiên, công ty gánh chịu những chi phí hợp đồng cao hơn đáng kể
trong quá trình hoạt động kinh doanh như duy trì đội ngũ lao động có tay nghề, thương lượng về tài
chính, hoặc thu hút khách hàng mới. Thứ hai, những công ty đang kệt quệ tài chính có khuynh
hướng từ bỏ những dự án có NPV tốt, thường được biết đến như vấn đề thiếu đầu tư, bởi vì thiếu
thanh khoản (Froot, Scharfstein, and Stein 1993) hoặc việc đầu tư miễn cưỡng khi lợi ích thu được
từ những dự án đang thực hiện gần như đổ dồn về trái chủ trái ngược với lợi của ích cổ đông, một
biểu hiện của vấn đề của chi phí đai diện Smith (1995). Cuối cùng, tình trạng kiệt quệ tài chính có
thể dẫn tới phá sản bởi các chi phí trực tiếp như các loại phí pháp lý, hành chính và phí kế toán.
Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp tăng lên từ phòng ngừa rủi ro tài chính phụ thuộc vào đặc điểm
tài chính và việc phòng ngừa rủi ro. Ở một phía cạnh khác, Mackay và Moeller (2007) đã giải thích
một cách thông minh rằng “đánh giá hiệu quả của việc phòng ngừa rủi ro doanh nghiệp phải được
hiệu chỉnh về so với mức chuẩn thì giá trị của các hoạt động để phòng ngừa rủi ro có khả năng tăng
thêm bao nhiêu?”. Cụ thể hơn, giá trị của việc phòng ngừa rủi ro tài chính được xác định bởi sự
tương tác giữa mức độ phòng ngừa rủi ro và giá trị tiềm ẩn tăng thêm nếu công ty có biện pháp
phòng ngừa đầy đủ những rủi ro của họ. Dưới những giả thiết ngây thơ cho rằng tất cả công ty chấp
nhận cùng một mức độ phòng ngừa rủi ro, họ phòng ngừa cùng một tỷ lệ rủi ro tổng thể, tiếp theo
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 5
những lập luận ở trên cho rằng công ty có những xác suất rủi ro cao hơn có thể hưởng lợi nhiều hơn
từ việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Những công ty này có đặc điểm tiêu biểu bởi quy
mô nhỏ, thanh khoản thấp và rủi ro kinh doanh cao hơn1.
Những kết luận trên thúc đẩy chúng tôi tập trung vào mẫu là các công ty IPO để tìm ra điểm
quan trọng của các câu hỏi nghiên cứu là liệu việc phòng ngừa rủi ro tài chính có làm tăng giá trị
của công ty. Mặc dù sự thật là các công ty IPO theo lý thuyết được dự đoán là ứng cử viên sáng giá
để hưởng lợi từ các việc phòng ngừa rủi ro tài chính do các đặc điểm tài chính của họ, bằng chứng
thực nghiệm đã loại trừ mối quan hệ giữa các công ty với các công ty được thành lập (xem ví dụ
Allayannis and Weston 2005; Carter, Rogers, and Simkins 2006; va Hin and Jorion 2006). Tuy
nhiên, bằng chứng thực nghiệm liên quan đến giá trị công ty và phòng ngừa rủi ro tài chính không
đem lại kết quả thuyết phục. Một số nghiên cứu đã báo cáo về sự thành công của việc phòng ngừa
rủi ro (Allayannis and Weston 2001; Kim; Mathur, va Nam 2006; và Carter, Rogers, and Simkins
2006), trong khi những bài nghiên cứu khác đã có được thành công giới hạn trong việc đưa ra bằng
chứng về mối quan hệ tích cực giữa phòng ngừa rủi ro và giá trị doanh nghiệp (Jin and Jorion 2006,
2007; Bartram, Brown, and Conrad 2011). Mackay và Moeller (2007) đã chứng minh rằng phòng
ngừa rủi ro có thể làm tăng giá trị, nhưng giá trị tăng thêm phụ thuộc vào việc các công ty phòng
ngừa những rủi ro chắc chắn và bỏ lại những rủi ro khác không được phòng ngừa. Sự khác biệt
trong những kết quả thực nghiệm này có thể được điều hòa bằng việc thừa nhận rằng giá trị tăng
thêm cuối cùng là một chức năng của cả mức độ phòng ngừa rủi ro và giá trị tối đa đạt được từ
phòng ngừa rủi ro. Đối với yếu tố đầu tiên, công ty có thể hoặc không thể phòng ngừa rủi ro với
mức độ tốt nhất của họ, trong khi giá trị phòng ngừa rủi ro tối đa phụ thuộc vào cả hai yếu tố là đặc
điểm công ty và sự biến động (tính không ổn định) của nguồn rủi ro cơ bản mà nó được phòng ngừa
một cách hiệu quả.
1 Việc phòng ngừa rủi ro tài chính có thể làm giảm rủi ro có hệ thống hoặc riêng biệt của một công ty đã là đề tài tranh
luận. Tuy nhiên, bằng chứng mới gần đây được giới thiệu bởi Gay, Lin, và Smith (2011) cho thấy rằng việc phòng ngừa
rủi ro tài chính làm giảm rủi ro mất khả năng thanh toán mà nó được xác định trong phân tích hồi quy tỷ suất sinh lợi.
Sau đó việc phòng ngừa rủi ro tài chính có thể và làm giảm chi phí vốn những công ty có phòng ngừa rủi ro. Phát hiện
này củng cố các trường hợp bảo hiểm rủi ro tài chính làm tăng giá trị của công ty.
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 6
Thay vì sử dụng mẫu là các công ty IPO trong lĩnh vực công nghiệp, chúng tôi lựa chọn tập
trung vào các công ty IPO trong lĩnh vực khai khoảng. Những công ty được lựa chọn trong mẫu dựa
vào những mối quan tâm liên quan tới vấn đề nội sing được nhấn mạnh bởi Arest và Bartram (2010)
và Bartram, Brown, và Conrad (2011). Có hai khía cạnh nội sinh có thể ảnh hưởng đến việc giải
thích các kết quả. Đầu tiên, công ty sử dụng các công cụ tài chính phái sinh có thể là yếu tố thúc
đẩy, hơn là yếu tố quyết định đến giá trị công ty và/hoặc thành quả công ty. Thứ hai, bằng việc xử
lý các dữ liệu hồi quy chéo (đa biến), cho thấy rằng bất kỳ sự khác biệt nào trong giá trị công ty có
thể do sự khác biệt trong các đặc điểm tài chính của những công ty mà nó thuộc vào những ngành
công nghiệp khác nhau trái ngược với việc các công ty có hoặc không sử dụng các công cụ phái
sinh.
Bằng cách tập trung vào một ngành công nghiệp đơn lẻ, chúng tôi đã tiếp cận những nghiên
cứu của Jin và Jorion (2006) để đảm bảo rằng tất cả các công ty trong mẫu có mức độ rủi ro giống
nhau, cũng như hoạt động và các đặc điểm tài chính của các ngành liên quan. Kết quả là bất kỳ sự
khác biệt nào trong giá trị công ty và thành quả công ty sau khi kiểm soát các đặc điểm cụ thể của
công ty, có thể thể hiện được sự khác nhau trong việc thực hiện quản trị rủi ro, trái ngược với sự
khác biệt trong các đặc điểm tài chính được dự kiến.
Chúng tôi lựa chọn mẫu là các công ty khai khoáng IPO một phần do thực tế rằng rủi ro tài
chính từ các công ty khai khoáng của Australia là khá minh bạch và được xác định rõ. Đặc biệt, các
công ty khai khoáng của Úc có những rủi ro về doanh thu làm biến động về giá hàng hóa2. Ngoài ra,
khi giá cả hàng hóa được niêm yết bằng đô la Mỹ, các doanh nghiệp cũng nhạy cảm với sự biến
động của tỷ giá đồng đô la Úc / đô la Mỹ (AUD / USD ). Mặc dù có sự tương tự trong hoạt động
của mình và tập hợp những rủi ro đồng bộ liên quan, nhưng không có sự đảm bảo rằng tất cả các
công ty trong mẫu của chúng tôi nhạy cảm với những rủi ro trong giá cả hàng hóa, bởi vì phần lớn
các công ty khai khoáng IPO vẫn đang trong giai đoạn thăm dò và có xu hướng làm tối thiểu những
rủi ro về giá hàng hoá.
Ở một khía cạnh khách, rủi ro tỷ giá là một nguồn nguy cơ phổ biến hơn. Ngay cả trong trường
hợp không có những rủi ro về doanh thu, các công ty vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi sự biến động tỷ
2 Australia là nhà cung cấp hàng đầu thế giới về một số loại hàng hóa, bao gồm than đá, quặng sắt, dầu thô, vàng, bạc,
đồng đỏ, kim cương và khí gas tự nhiên. Xem Maslen (2006) để biết chi tiết.
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 7
giá hối đoái thông qua những rủi ro về chi phí hoặc cạnh tranh. Cũng cần phải chú ý rằng rằng tỷ
giá hối đoái đã biến động lớn hơn giá cả hàng hóa niêm yết trong quá trình lấy mẫu của chúng tôi 3.
Vì vậy, chúng tôi tập trung vào việc kiểm định hiệu quả của việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá như là
một yếu tố tiềm năng quyết định tỷ suất sinh lợi của IPO trong dài hạn.
Nếu các công ty không dự kiến những rủi to tài chính dễ xảy ra thì không có lý do gì để mong
đợi rằng việc phòng ngừa rủi ro có thể làm tăng thêm giá trị công ty. Do đó, tất cả các công ty này
có thể làm giảm ý nghĩa các giải thích của chúng tôi về các kết quả. Theo đó, chúng tôi áp dụng một
mô hình thị trường gia tăng đã được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu (Adler và Dumas 1984;
Allayannis và Ofek năm 2001; Bartram, Brown, và Minton 2010) để xác định sai số có ý nghĩa về
những rủi ro tỷ giá hối đoái cho các công ty trong mẫu của chúng tôi. Dựa trên những thông tin về
rủi ro và việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh, chúng tôi phân loại mẫu nghiên cứu thành
bốn nhóm khác nhau:
Những công ty thực hiện phòng ngừa rủi ro có hiệu quả: những công ty sử dụng các
công cụ phái sinh và không các độ nhạy cảm rủi ro (nhóm 1);
Những công ty thực hiện phòng ngừa rủi ro không hiệu quả: những công ty sử dụng
các công cụ phái sinh và có độ nhạy cảm rủi ro (nhóm 2);
Những công ty không thực hiện phòng ngừa rủi ro: những công ty không sử dụng
các công cụ phái sinh và có độ nhạy cảm rủi ro (Nhóm 3); và cuối cùng
Những công ty không có rủi ro do không kỳ vọng trong quá khứ: là những công ty
không sử dụng các công cụ phái sinh và không độ nhạy cảm rủi ro. (Nhóm 4).
3 Liên quan đến các cuộc thảo luận hiện nay là một nhận xét rằng hầu hết sự biến động trong chỉ số giá cả
hàng hóa đều theo chiều hướng tăng. Đó là, giá cả hàng hóa chủ yếu là theo xu hướng tăng trong suốt giai
đoạn 1994-2009, ngoại trừ điểm đặc biệt của giai đoạn này là được đặc trưng bởi các cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Đối với những công ty xuất khẩu, việc phòng ngừa rủi ro được hi vọng sẽ có lợi ích hơn
trong việc đưa ra những rủi ro giảm giá để chống lại rủi ro tăng giá.
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 8
Phân tích của chúng tôi chủ yếu tập trung vào ba loại công ty đầu tiên, chúng tôi tin rằng thất
bại của việc sử dụng các công cụ phái sinh trong nhóm không có rủi ro là bởi vì họ thiếu việc dự
kiến trước những rủi ro có thể xảy ra trong lương lai4.
Việc sử dụng mô hình ba nhân tố Fama - French để kiểm định quy mô doanh nghiệp và hệ số
giữa giá thị trường và giá sổ sách, chúng tôi tìm thấy bằng chứng rất mạnh mẽ rằng những công ty
phòng ngừa rủi ro hiệu quả (Nhóm 1) có kết quả tốt hơn những công ty không phòng ngừa rủi ro
(Nhóm 3). Kết quả có thể áp dụng trong những mô hình có thể lựa chọn sử dụng phương pháp tỷ
trọng bằng nhau và giá trị tăng thêm. Kết quả của chúng tôi tiếp tục tiết lộ rằng các công ty có
phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái hiệu quả (Nhóm 1) sử dụng các công cụ phái sinh và loại trừ
những rủi ro với một mức độ thống kê không đáng kể tốt hơn những công ty phòng ngừa rủi ro tỷ
giá không hiệu quả, tuy cũng sử dụng các công cụ phái sinh, nhưng vẫn thiệt hại từ những độ nhạy
cảm rủi ro khác (nhóm 2). Những công ty phòng ngừa rủi ro không hiệu quả (nhóm 2) có hiệu quả
hoạt động tốt hơn so với công ty không phòng ngừa rủi ro (Nhóm 3), nhưng sự khác biệt trong hiệu
quả hoạt động sẽ biến mất khi mà quy mô công ty và hệ số giá thị trường so với giá sổ sách được
kiểm soát.
Kết quả phân tích hồi quy đa biến của chúng tôi khẳng định vai trò gia tăng giá trị của các công
cụ tài chính phái sinh cụ thể cho mẫu IPO này. Nhìn chung, kết quả của chúng tôi cho thấy rằng
việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tài chính được kết hợp
với hiệu quả dài hạn tốt hơn cho các công ty IPO. Ngoài ra, thị trường không thưởng cho việc
phòng ngừa rủi ro, mà chỉ thưởng cho những công ty loại bỏ được những rủi ro tài chính có hiệu
quả. Với tập hợp các kết quả này, chúng tôi làm phong phú thêm nền tảng kiến thức xung quanh
việc tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro bằng cách sử dụng các công cụ tài chính phái sinh áp
dụng cho một loại công ty mới, hay gọi là các công ty IPO. Rào cản lý thuyết được dự đoán rằng
các công ty IPO có một xu hướng mạnh mẽ là các công ty này hưởng lợi từ phòng ngừa rủi ro tài
4 Tuy nhiên, chúng tôi thừa nhận rằng những người dùng không sử dụng các công cụ phái sinh vẫn có thể phòng ngừa,
nghĩa là họ tham gia vào các hình thức phòng ngừa rủi ro khác, chẳng hạn như phòng ngừa rủi ro trong hoạt động hoặc
thông qua đó để làm giảm những rủi ro dễ xảy ra. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng đến phân tích thực nghiệm của chúng
tôi khi chúng tôi tập trung vào việc xem xét của những công ty sử dụng thực hiện phòng ngừa rủi ro hiệu quả đạt thành
quả cao hơn so với nhóm khác. Chúng tôi cũng thường giả định ngầm rằng các công ty sử dụng tài chính phái sinh để
phòng ngừa rủi ro.
Nhóm 4 – đề tài số 1 – môn Quản trị rủi ro GVHD: Th.s Đinh Thị Thu Hồng
Lớp TCDN Ngày 1 – K20 Page 9
chính là do đặc điểm tài chính của họ. Và chúng tôi đã kiểm định bằng thực nghiệm rằng những
công ty phòng ngừa rủi ro hiệu quả thực sự được hưởng lợi từ việc phòng ngừa rủi ro tài chính.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày như sau. Phần 2 trình bày một cái nhìn tổng
quan về các tài liệu liên quan đến hiệu quả IPO trong dài hạn và mối quan hệ giữa phòng ngừa rủi
ro tài chính và giá trị của cổ đông. Phần 3 là mô tả dữ liệu và phương pháp nghiên cứu của chúng
tôi. Phần 4 trình bày những kết quả nghiên cứu của chúng tôi, và mục 5 kết luận bài nghiên cứu.
2. Cơ sở lý luận nền tảng:
2.1 Bằng chứng về hiệu quả IPO dài hạn:
Hơn hai thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã bị hấp dẫn bởi hiệu quả dài hạn của các đợt
IPO, được chứng minh bằng tài liệu nghiên cứu đầu tiên của Ritter (1991) và Loughran and Ritter
(1995). Mặc dù mức độ của hiệu quả IPO trong dài hạn thay đổi tùy thuộc vào thời gian lấy mẫu,
những kiểu IPO (Brav and Gompers năm 1997; Wu and Kwok 2007), và quan trọng hơn là cách xác
định tỷ suất sinh lợi sau khi phát hành (Schultz 2003; Gregory, Guermat, and Al-Shawawreh 2011),
sự kém hiệu quả trong dài hạn của các công ty liên quan đến việc phát hành cổ phiếu rộng rãi ra
công chúng lần đầu - IPO. Tuy nhiên, có một sự không chắ