Đề tài Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân

Xã hội đang ngày càng phát triển, nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở những nhu cầu vật chất mà nó còn là những nhu cầu cao hơn về mặt tinh thần.Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã công nhận, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Điều này được ghi nhận trong bản hiến pháp đầu tiên của nước ta( hiến pháp 1946), hiến pháp đã khẳng định quyền làm chủ và các quyền cơ bản của nhân dân ta. Sau này trong các bản hiến pháp 1959, 1980 và hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, các quyền cơ bản của công dân lại tiếp tục được khẳng đinh, phát triển và mở rộng thành chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong các quyền của công dân, ta không thể không nhắc đến “ Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân”.

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3248 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ BÀI 1 NỘI DUNG 1 I.Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân 1 1. Khái niệm hình ảnh 1 2. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh. 2 3. Đặc điểm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. 2 4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân. 5 II. Nội dung quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. 5 1. Nội dung quyền nhân thân đối với hình ảnh của mình. 5 2. Mối quan hệ giữa quyền nhân thân đối với hình ảnh với nhóm quyền nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của con người. 7 3. Giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh. 11 4. Bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. 13 III. Thực trạng bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. 15 KẾT LUẬN 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 MỤC LỤC 21 MỞ BÀI Xã hội đang ngày càng phát triển, nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở những nhu cầu vật chất mà nó còn là những nhu cầu cao hơn về mặt tinh thần.Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã công nhận, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Điều này được ghi nhận trong bản hiến pháp đầu tiên của nước ta( hiến pháp 1946), hiến pháp đã khẳng định quyền làm chủ và các quyền cơ bản của nhân dân ta. Sau này trong các bản hiến pháp 1959, 1980 và hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, các quyền cơ bản của công dân lại tiếp tục được khẳng đinh, phát triển và mở rộng thành chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong các quyền của công dân, ta không thể không nhắc đến “ Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân”. NỘI DUNG I.Hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của cá nhân 1. Khái niệm hình ảnh Theo từ điển Tiếng việt, của Viện ngôn ngữ học 2000, giải thích hình ảnh là “ Hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học 9 như máy ảnh hoặc để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động trong cách diễn đạt”. Trong triết học, hình ảnh được coi “ là kết quả của sự phản ánh khách thể, đối tượng vào ý thức của con người. Ở trình độ cảm tính, hình ảnh là những cảm giác, tri giác và biểu tượng. Ở trình độ tư duy, đó là những khái niệm, phán đoán và suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là khách quan, về cách nhận thức tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể hiện vật chất của hình ảnh là các hành động thực tiễn, ngôn ngữ, các mô hình kí hiệu khác nhau.” Dưới góc độ pháp lý, căn cứ điều 31 BLDS năm 2005 thì khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiểu là bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra có thể bao gồm cả bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình ( quay video ). Đối với mỗi loại hình nghệ thuật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau. 2. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Hình ảnh của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ bằng việc quy định là một quyền của cá nhân tại điều 31 BLDS năm 2005 với tên gọi là “quyền đối với hình ảnh của cá nhân”. Tuy nhiên điều luật này không đua ra khái niệm về quyền đối với hìh ảnh của cá nhân, các văn bẳn pháp luật khác cũng không có văn bản nào đưa ra khái niệm về quyền đối với hình ảnh. Vì vậy, để giúp cho việc hiểu rõ bản chất của quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân, căn cứ vào các khái niệm được đưa ra ở trên ta có thể hiểu “ Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó cá nhân được phép sử dụng và cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình.” 3. Đặc điểm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân không gắn với tài sản. Đặc tính không gắn với tài sản là một trong nhưng đặc tính cơ bản để phân biệt nhân thân không gắn với tài sản với quyền nhân thân gắn với tài sản ( quyền đứng tên tác giả, quyền đặt tên cho tác phẩm…) Vì quyền nhân thân đối với hình ảnh luôn gắn với chính hình ảnh bản thân của người đó và mỗi một chủ thể có một hình ảnh riêng biệt. Mỗi chủ thể được công nhận một cách vô điều kiện với quyền nhân thân gắn với hình ảnh. Hình ảnh bên ngoài của cá nhân là yếu tố nhận dạng cá nhân đó, không phải là một loại tài sản để đem ra giao dịch. Điều này hoàn toàn khác với quyền tài sản đối với hình ảnh, vì quyền tài sản đối với hình ảnh nghĩa là hình ảh của cá nhân được sử dụng trong giao dịch thương mại, quảng cáo. Quyền này được phép mang ra kinh doanh nhằm thu lại lợi nhuận cho bản thân cá nhân.Do đó khi sử dụng hình ảnh của cá nhân vào mục đích quảng cáo thì cần phải có sự đồng ý của cá nhân đó. Quyền nhân thân đối với hình ảnh được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế , địa vị hay mức độ tài sản của người đó. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân của cá nhân. Đặc tính quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân của cá nhân. Đặc điểm này nhằm phân biệt giữa quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh và quyền đối với hình ảnh của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền cá biệt hóa chủ thể. Cùng với quyền của cá nhân đối với họ tên và dân tộc, quyền nhân thân đối với hình ảnh thuộc quyền cá biệt hóa cá nhân. Đây là những quyền nhân thân tuyệt đối, gắn liền với bản thân cá nhân đó. Quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân là những quyền nhân thân ghi nhận những đặc điểm của mỗi cá nhân trong quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ dân sự nói riêng. Quyền cá biệt hóa chủ thể được thể hiện dưới hình thức các công cụ cs biệt hóa khác nhau ở mỗi chủ thể như mỗi người có tên gọi, hình ảnh và các yếu tố lý lịch khác nhau. Tập hợp các công cụ cá biệt hóa đó ở mỗi chủ thể sẽ cho ra sự hình dung bên ngoài về chủ thể đó khác biệt với chủ thể khác. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn. Quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân được pháp luật ghi nhân và bảo hộ vĩnh viễn. Khi chủ thể không còn nữa thì những người có liên quan được qyền yêu cầu bảo vệ khi có hành vi xâm phạm. Cụ thể tại khoản 2 Điều 31 BLDS năm 2005 quy định như sau: “ Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưanđủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà nước, của công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy khi còn sống nếu như việc công bố hình ảnh mà không được sự đồng ý của họ vì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống sinh hoạt của bản thân cá nhân đó ( chủ sở hình ảnh ) thì khi cá nhân chết, hình ảnh cá nhân vẫn được pháp luật bảo vệ bởi điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của những người thân thích của họ. Theo đó, thu thập công bố hình ảnh của cá nhân khi cá nhân đã chết thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của họ đồng ý. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền được bảo vệ khi có yêu cầu. Khi quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm phạm thì cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm phải là người đánh giá xem quyền nhân thân đối với hình ảnh của mình có bị xâm phạm hay không? Nhà nước sẽ chỉ can thiệp và bảo vệ khi có yêu cầu. - Quyền nhân thân đối với hình ảnh thuộc nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên quan đến quyền. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân gián tiếp đã xâm phạm tới quyền nhân thân của cá nhân đỗi với hình ảnh. Khi quyền nhân thân của cá nhân đới với hình ảnh bị xâm phạm dẫn tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm. Đồng nghĩa với việc cá nhân đó phải gánh chịu những tổn thất trực tiếp do hành vi xâm phạm đó gây ra. Khắc phục những hậu quả này chủ thể có hành vi xâm phạm tác động tới quyền được yêu cầu buộc chấm dứt hành vi xâm phạm, buộc phải xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường một khoản tiền nhằm bù đáp một phần nào đó thiệt hại về tình thần của mình. 4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân. - Đối với chính chủ có hình ảnh, có thể thấy “ hình ảnh” là yếu tô tinh thần gắn liền với bản thân chủ thể, nó có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của họ, mỗi hành vi xâm phạm đến hình ảnh của cá nhân trên thực tế thường ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần của cá nhân đó, vì không chỉ xâm phạm hình ảnh thôi mà còn xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, bởi vậy việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân có ý nghĩa lớn trong vieecjngawn chặn kịp thời hành vi xâm phạm đến hình ảnh của cá nhân, giúp khắc phục được một phần hậu quả về vật chất cũng như tinh thần cho chủ thể bị xâm hạm, tạo điều kiện cho cá nhân yên tâm lao động và sáng tạo. - Về phía nhà nước việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh góp phần hiện thực hóa nôi dung các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân, từ đó tăng cường lòng tin của nhân dân vào Nhà nước, vào quy định của pháp luật, để mọi người sống và thực hiện theo hiến pháp và pháp luật. - Việc bảo vệ hình ảnh của cá nhán còn có ý nghĩa to lớn đối với xã hội đó là bảo đảm trật tự xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền đối với hình ảnh của cá nhân. II. Nội dung quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. 1. Nội dung quyền nhân thân đối với hình ảnh của mình. Ngay tại khoản 1 điều 31 BLDS năm 2005 quy định “ Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình”. Đây là sự khẳng định của nhà nước về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của bản thân mình. Thông qua quy định tại điều 31 BDS năm 2005 cho thấy nội dung của quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân gồm: (i) Quyền được phép sử dụng hình ảnh của mình; (ii) quyền cho người khác sử dụng hình ảnh của mình; (iii) Quyền được bảo vệ đối với hình ảnh của cá nhân trước hành vi sử dụng hình ảnh trái phép. Thứ nhất: cá nhân có quyền sử dụng hình ảnh của mình. Hình ảnh là yếu tố nhân thân gắn liền với cá nhân nên trước tiên chính bản thân cá nhân đó được quyền sử dụng. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân thông qua việc tự khai thác giá trị thương mại hình ảnh của banrr thân bằng việc bán hình ảnh của mình cho người khác sử dụng và nhận tiền. Ví dụ: Nguời mẫu ký hợp đồng với các nhiếp ảnh gia, theo đó các nhiếp ảnh gia phải trả tiền để được chụp ảnh họ. Như vậy, quyền đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân nên cá nhân có quyền được phép sử dụng hình ảnh của mình. Thứ hai: Cá nhân có quyền cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2005 quy định: “ Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con dã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy quyền định đoạt cho chủ thể khác sử dụng hình ảnh của cá nhân được thể hiện ở việc chủ sở hữu ảnh “đồng ý” cho sử dụng ảnh. Xét về khía cạnh bản quyền thì bức ảnh tấm hình, pho tượng… đều là tác phẩm nghệ thuật và được bảo hộ quyền tác giả. Người sử dụng tác phẩm trước hết phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả và trả cho họ một khoản lợi ích vật chất. Nhưng dừng lại về mặt quan hệ dân sự, ai muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân đều phải được sự đồng ý của người có hình ảnh đó. Tóm lại đối với hình ảnh của mình cá nhân có quyền tuyệt đối được phép sử dụng và cho người khác sử dụng hình ảnh của mình, mọi hành vi sử dụng hình ảnh nói chung đều phải được sự đồng ý của cá nhân đó. Thứ ba: Quyền được bảo vệ đối với hình ảnh của cá nhân trước hành vi sử dụng trái phép. Ta thấy quyền nhân thân nói chung trong đó có quyền của cá nhân đối với hình ảnh thuộc thẩm quyền tuyệt đối, thể hiện sự ghi nhận của nhà nước đối với các giá trị tinh thần của cá nhân, bất kỳ hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lí : Trách nhiệm đó có thể là trách nhiệm hình sự, hành chính hay dân sự. Hiện nay, pháp luật quy định cá biện pháp bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân đó. Theo đó, người xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của người khác thì dù có cố ý hay vô ý đều có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai, nếu gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Theo quy định tại điều 31 BLDS năm 2005, không nhất thiết phải gây ra thiệt hại mới coi là vi phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh nếu sử dụng hình ảnh của họ mà không đồng ý. 2. Mối quan hệ giữa quyền nhân thân đối với hình ảnh với nhóm quyền nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của con người. Nhóm các quyền nhân thân liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể bao gồm: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm uy tín, quyền bí mật đời tư, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền tự do tin ngưỡng, tôn giáo, quyền đi lại, tự do cư trú, quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo những quyền đó thì có hai quyền liên quan mật thiết với quyền đối với hình ảnh của cá nhân là : Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền bí mật đời tư. Việc xác định rõ mối liên hệ giữa các quyền này có ý nghĩa lớn trong việc đảm bảo thực hiện quyền của cá nhân đối với các quyền nhân thân của mình được pháp luật thừa nhận. Thứ nhất: trong một số trường hợp quyền nhân đối với hình ảh có quan hệ chặt chẽ với quyền bí mật đời tư. Giống như quyền nhân thân đới với hình ảnh, hiện nay chưa có quy định như thế nào là quyền bí mật đời tư trong BLDS 2005. Theo tiến sĩ Lê Đình Nghị : “ Quyền bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu ( gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội và những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”. Trong khoản 2 Điều 38 BLDS quy định : “Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập công bố thông tin, tư liệu theo quy định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.” Vì vậy, trong một số trường hợp nhất định quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân có liên quan đến bí mật đời tư như. Trường hợp hình ảnh của cá nhân là hình ảnh riêng tư, cá nhân không muốn tiết lộ thì việc công bố hình ảnh của cá nhân đó là xâm phạm tới bí mật đời tư, hoặc là hình ảnh mà cá nhân giữ kín và việc giữ kín được pháp luật tôn trọng và bảo vệ hoặc cũng có thể là hình ảnh được thể hiện chung với người khác mà cá nhân không muốn tiết lộ, công khai và hơn thế nữa những hình ảnh đó bị tiết lộ có thể gây hậu quả về vật chất, tinh thần cho chủ thể của hình ảnh thì đây cũng được coi là “ bí mật đời tư của cá nhân”. Như vậy cá nhân có quyền khởi kiện hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư nếu một chủ thể nào đó công bố những hình ảnh của cá nhân mà cá nhân thực hiện việc giữ bí mật hình ảnh đó. Trong trường hợp này thì quyền bí mật đời tư có liên hệ với quyền đối với hình ảnh của cá nhân, hành vi sử dụng trái phép hình ảnh của cá nhân ở một góc độ nào đó được xác định là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư. Trên thực tiễn hiện nay có nhiều những hành vi sử dụng hình ảnh của cá nhân đã xâm phạm đến quyền bí mật đời tư như: hành vi quay phim, chụp ảnh, công bố những cảnh quay hoặc những hình ảnh về đời sống riêng tư của một người mà mình đã từng quay, đã chụp được mà chưa được sự đồng ý của người được quay được chụp… Thứ hai : Mối quan hệ giũa quyền đối với hình ảnh của cá nhân với quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Hình ảnh của cá nhân cũng là một yếu tố gắn liền với danh dự, nhân phảm, uy tín, nó là một trong những yếu tố để nhận diện, xác định danh dự, uy tín, vì vậy quyền đối với hình ảh của cá nhân có liên hệ mật thiết đối với quyền được bảo vệ dah dự, nhân phảm, uy tín. Sự liên hệ đó thể hiện ở chỗ hình ảnh của cá nhân có thể làm tăng giá trị của cá nhân hoặc có thể làm giảm sút, ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phảm, uy tín. -Hình ảnh của cá nhân làm tăng giá trị của cá nhân đó. Ta đã biết với cá nhân “Danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó,danh dự của một người được hình thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được; uy tín là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt độngt hực tiễn của mình bởi mức mà người trong tổ chức, một dân tộc cảm phục, tôn kính và tự nguyện nghe theo.” Do vậy nếu hình ảnh của một cá nhân mỗi khi được xuất hiện trước công chúng thông qua các phương tiện thông tin mà được phản ánh chân thực về những thành công trong cuộc sống , sự nghiệp, công danh…thì các nhân đó ngày càng tạo được tiếng tăm trước mội người và được mội người yêu mến, khâm phục…điều này làm tăng giá trị của bản thân người đó. -Hình ảnh của cá nhân có thể làm giảm sút, hình ảh xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người rất quan trọng, mặc dù là những giá trị nhân thân không giá trị được thành tiền, tuy nhiên xâm phạm đến những giá trị này có thể có thể ảnh hưởng dến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm hại, thiệt hại mà chủ thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu bao gồm cả thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần, hậu quả do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín là rất nghiêm trọng. trên thực tiễn hành vi xâm phạm danh dự, nhân phảm, uy tín thường diễn ra dưới nhiều hành vi, một trong số đó có hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân như : Đem ảnh của một người phát tán trên mạng sau khi đã có sự cắt xén hình ảnh hoặc đưa hình ảnh có nội dung khong lành mạnh nhằm bôi nhọ danh dự một người hay như phát tán những hình ảnh “nhạy cảm” của cá nhân… có thể thấy cách thức sử dụng hình ảnh của cá nhân để xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của một người được thực hiện rất dẽ dàng hiện nay với sự trợ giúp của phương tiện thông tin hiện đại, do đó, bảo vệ quyền của cá nhân đối với hìn ảnh của mình cũng góp phần hạn ché không nhỏ hành vi xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể. Như vậy, quyền đối với hình ảnh của cá nhân có quan hệ đới với quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bởi thông qua hành vi sử dụng hình ảnh của cá nhân có thể xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của một người. Chính vì vậy, BLDS năm 2005 đã bổ sung thêm quy định mới so với BLDS năm 1995 về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại khoản 3 điều 31 như sau : “ Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm uy tín của người có hình ảnh”. Như vậy hình ảnh của cá nhân dù hợp pháp có sự đồng ý của cá nhân nhưng nếu xâm phạm tới danh dự nhân phẩm, uy tín của người đó thì là vi phạm pháp luật. Với quy định như trên pháp luật đã hạn chế được việc sử dụng tùy tiện hình ảnh của cá nhân hiện nay. 3. Giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh. - Giới hạn quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân trong mối quan hệ với quyền được thông tin . Quyền được thông tin có phạm vi rộng, liên quan mật thiết với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền quy định: “ Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tổ ý kiến. Quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm và không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng, thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào không có biên giới.” Như vậy, quyền tự do thông tin bao gồm những nội dung sau: tự do tìm kiếm thông tin và tự do tiếp nhận thông tin. Tại điều 69 hiến pháp 1992 quy định “ Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin.” Trong hoạt động báo chí, báo chí cung cấp rất nhiều thông tin, hình ảnh mọi mặt của đời sống. Các bản tin truyền hình tập trung chủ yếu vào hình ảnh. Quyền tự do báo chí vì vậy rất dễ xung đột với quyền của cá nhân đối với hình ảnh, có thể thấy quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình đã bị giới hạn bởi quyền
Luận văn liên quan