Bi kịch Hy Lạp là “một vẻ đẹp của Hy Lạp cổ đại” (Arixtốt), là một thành tựu quan trọng bậc nhất của nền văn học Hy Lạp trong thời kỳ cổ điển của nó. Thể loại bi bịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên nhu cầu phản ánh hiên thực tất yếu của nghệ thuật, trên một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nó là mảnh đất màu mỡ đã sản sinh ra những nhà bi kịch lớn mà tên tuổi mà tác phẩm của họ xứng đáng là một “mùi hương lạ” góp vào vườn hoa bi kịch thế giới.
Những cái tên như Esin, Xôphôclơ, Ơripit mãi là niềm tự hào của bi kịch thế giới nói chung và bi kịch Hy Lạp nói riêng. Nếu như Esin được mệnh danh là “ông tổ của bi kịch”, là người đã đặt những “viên gạch vàng” đầu tiên làm nền móng cho toà nhà lớn bi kịch của nhân loại thì Xôphôclơ là người đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch, được mệnh danh là “Hôme của nghệ thuật kịch”. So với bậc tiền bối của mình thì Xôphôclơ không chỉ cải tiến về kỷ thuật kịch mà còn cải tiến về nội dung và nghệ thuật của bi kịch nữa.
27 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3456 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Bi kịch Hy Lạp là “một vẻ đẹp của Hy Lạp cổ đại” (Arixtốt), là một thành tựu quan trọng bậc nhất của nền văn học Hy Lạp trong thời kỳ cổ điển của nó. Thể loại bi bịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên nhu cầu phản ánh hiên thực tất yếu của nghệ thuật, trên một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nó là mảnh đất màu mỡ đã sản sinh ra những nhà bi kịch lớn mà tên tuổi mà tác phẩm của họ xứng đáng là một “mùi hương lạ” góp vào vườn hoa bi kịch thế giới.
Những cái tên như Esin, Xôphôclơ, Ơripit mãi là niềm tự hào của bi kịch thế giới nói chung và bi kịch Hy Lạp nói riêng. Nếu như Esin được mệnh danh là “ông tổ của bi kịch”, là người đã đặt những “viên gạch vàng” đầu tiên làm nền móng cho toà nhà lớn bi kịch của nhân loại thì Xôphôclơ là người đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch, được mệnh danh là “Hôme của nghệ thuật kịch”. So với bậc tiền bối của mình thì Xôphôclơ không chỉ cải tiến về kỷ thuật kịch mà còn cải tiến về nội dung và nghệ thuật của bi kịch nữa.
Tác phẩm Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ. Thành công của vở bi kịch có được một phần là do nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của ông. Trong vở bi kịch này, Xôphôclơ đã dựng nên hai hình tượng trung tâm đối lập với nhau về lý tưởng sống cũng như về tình cảm. Bên cạnh hình tượng Ăngtigôn với những vẻ đẹp của tình cảm nhân đạo và tình thương người bao la là hình tượng Crêông với đầy đủ những đặc điểm của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Nghiên cứu hình tượng sẽ giúp chúng ta thấy được hết giá trị của tác phẩm bởi “hình tượng là nơi thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mỹ của nghệ thuật”, đặc biệt trong những nhân vật phản diện thì điều này lại càng rõ hơn hết. Chính điều này đã thôi thúc chúng tôi tìm đến với đề tài: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn mang lại cái nhìn khách quan, toàn diện, đúng đắn, đầy đủ về những giá trị mà hình tượng Crêông mang lại trong vở bi kịch cũng như tài năng của Xôphôclơ trong việc khắc hoạ tính cách và miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật.
2. Lịch sử ghiên cứu vấn đề:
Xôphôclơ – là đại diện tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp trong thời kì toàn thịnh của nhà nước dân chủ, chủ nô Aten và là người tiếp nối Esin “cha đẻ của bi kịch Hi Lạp”. Là một trong ba đại diện vĩ đại của bi kịch Hi Lạp nên cuộc đời và sự nghiệp của ông được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước nghiên cứu. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số công trình nghiên cứu sau:
Công trình thứ nhất là của Lê Nguyên Cẩn trong cuốn Hợp tuyển văn học Châu Âu, tập 1, phần văn học cổ đại Hi Lạp- La Mã. Trong cuốn này, nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quát về cuộc đời và sự nghiệp của ba nhà bi kịch Etsin, Xôphôclơ và Ơripit. Đặc biệt, đối với Xôphôclơ thì ông cho Xôphôclơ là “người cách tân nghệ thuật bi kịch, nâng bi kịch lên một bước hoàn thiện mới”.
Công trình thứ hai là của Lương Duy Trung (chủ biên) trong cuốn Văn học phương Tây. Trong cuốn này, các nhà nghiên cứu đã trình bày một cách chi tiết cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ và giới thiệu về vở bi kịch Ăngtigôn. Đối với Xôphôclơ thì ông cho đây là “nhà thơ của thời kì nền dân chủ phồn vinh”, “là nhà thơ hoàn hảo”, “nhà thơ am hiểu nghệ thuật kịch hơn ai hết”, là người sáng tác ra những vở bi kịch “thực sự là những hình ảnh của cuộc sống mà bi kịch cũ chỉ là những nét phác họa”(Croazê).
Công trình thứ ba là cuốn Kịch Xôphôclơ, do Hoàng Trinh giới thiệu, Nguyễn Giang dịch. Cũng như hai công trình nghiên cứu trên thì công trình này cũng trình bày khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ. Đặc biệt trong cuốn này đã giới thiệu về vở bi kịch Ăngtigôn như sau: “Đối với vở bi kịch này, nó giúp chúng ta hiểu thêm xã hội Hi Lạp cổ đại, những vấn đề xã hội đặt ra với con người thời ấy…nhưng điều đáng chú ý hơn là về mặt nghệ thuật đây là lần đầu tiên kịch tính cách, kịch tâm lý xuất hiện…”.
Những công trình nghiên cứu trên đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong việc học tập và nghiên cứu. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với mong muốn đóng góp phần nào cái nhìn đầy đủ hơn những đóng góp của Xôphôclơ về nghệ thuật kịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ.
Phạm vi nghiên cứu: Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với những nét tính cách, đặc điểm điển hình cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Chúng tôi sẽ làm việc với văn bản tác phẩm Ăngtigôn trong cuốn Kịch Xôphôclơ của Hoàng Trinh giới thiệu, Nguyễn Giang dịch, năm 1985. Bản này dịch theo bản dịch tiếng Pháp THÉÁTRE DE SOPHOCLE của Robert Pignarre, NXB Garnierpreres, Paris, 1958, có tham khảo nguyên văn Hy Lạp với sự cộng tác của Nguyễn Mạnh Tường và Phan Ngọc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài này, ngoài việc thu thập, đọc, xử lý tài liệu chúng tôi còn sử dụng các phương pháp mang tính chất khoa học khác như:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, chứng minh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp tổng hợp, đánh giá
5. Giới thuyết thuật ngữ
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ những thuật ngữ sau: khái niệm hình tượng nghệ thuật, khái niệm thể loại bi kịch, khái niệm nhân vật văn học.
6. Cấu trúc đề tài
Bài tiểu luận của chúng tôi ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
B/ NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Bi kịch Hi Lạp - niềm tự hào của văn minh Hy Lạp
Bi kịch Hi Lạp cổ đại là niềm tự hào của văn minh Hi Lạp. Đó là những tác phẩm không chỉ vang bóng một thời mà còn được liệt vào hàng kiệt tác nên những đặc trưng thể loại của nó vẫn được coi là mẫu mực cho thể loại của mọi thời đại. Trong đó, thể loại bi kịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên một cơ sở xã hội nhất định. Đó là thời kì từ thế kỉ VI đến thế kỉ IV TCN, thời kì tan rã của chế độ công xã thị tộc và bước đầu xác lập chế độ quốc gia thành bang (Etat – Cite) của xã hội chiếm hữu nô lệ. Thành bang Aten, nơi khai sinh ra những khúc đitirambơ, nguồn gốc của bi kịch, là nơi đã chứng kiến một cách đầy đủ và điển hình nhất những diễn biến, những mâu thuẫn trong sinh hoạt xã hội, ý thức tư tưởng của quá trình hình thành, phát triển và tàn lụi của chế độ xã hội này. Ở thành bang này từ thế kỉ thứ VIII,VII TCN đã có những cuộc xung đột giữa tầng lớp quý tộc cầm quyền và nhân dân, tầng lớp bị trị. Cho nên, thời đại mà bi kịch ra đời là thời đại mà chế độ dân chủ Aten phát triển đến cao điểm của nó, là chuẩn mực của toàn Hi Lạp với những cải cách nổi tiếng của Xôlông, Pizitxtơrat, Clixten,Periklex …Đó cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa giai cấp chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp quý tộc ruộng đất đại diện cho tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, độc tài chuyên chế và tầng lớp chủ nô công thương cùng những người dân tự do, tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng tự do dân chủ. Và đó cũng là thời kì nền văn hóa Aten phát triển về mọi mặt: những ngôi đền bằng đá cẩm thạch trắng, những tượng tạc bằng ngà voi và bằng vàng hay đúc bằng đồng đồ sộ, những đồ gốm có những bức họa sinh động về các điển tích thần thoại. Có thể nói, xã hội Aten thế kỉ thứ VI – IV là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời của bi kịch Hi Lạp. Buyse trong Để bảo vệ thơ ca đã nói: “Một nghệ thuật mới đã xuất hiện” đồng thời với sự “xuất hiện con người mới”. Và đó cũng là nguồn gốc xã hội đích thực của sự ra đời của bi kịch.
Tuy nhiên, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, bi kịch còn có nguồn gốc dân gian của nó. Bi kịch ra đời trên cơ sở phát triển những câu chuyện nói về nỗi gian truân, vất vả của cuộc đời hoặc ca ngợi công đức lớn lao của ai đó. Nó đã vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca đitirambơ của lễ tế thần Điônizôx – thần rượu nho, thần say, thần hoan lạc…Nhân dân Hi Lạp sở dĩ chọn thần rượu nho Điônizôx để thờ cúng tế lễ vì vị thần này gắn với bộ phận sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của họ: nghề trồng nho và làm rượu nho. Thứ hai là do thần Điônizôx khác đa số các thần khác ở chỗ đây là một vị thần bình dân, cuộc đời vô vàn gian nan, khổ ải nên nhân dân lao động trồng nho đã tìm thấy sự “đồng điệu” trong những ca khúc hát về vị thần này. Loại hình bi kịch sở dĩ vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca thờ thần Điônizôx là vì trong hàng loạt đội đồng ca ca ngợi các vị thần khác nhau, chỉ có loại đitirambơ chứa đựng nhiều yếu tố gần gũi với những yêu cầu của sự biểu hiện bi kịch. Vì là một nền sân khấu hình thành từ những bài hát đitirambơ và những nghi lễ thờ phụng “tửu thần” cho nên bi kịch Hi Lạp mang những đặc điểm rõ rệt phản ánh nguồn gốc của nó. Nó không chia thành hồi, lớp như kịch hiện đại mà diễn một mạch từ đầu đến cuối. Sau mỗi bước tiến triển của hành động kịch tương đương một hồi thì đội đồng ca lại hát một bài tương đối dài để gói ghém lại và chuyển tiếp bước sau. Đặc điểm thứ hai là các kịch bản đều bằng thơ. Phần đồng ca là thơ hát, phần đối thoại là thơ ngâm nói. Đồng ca trong bi kịch giữ một vai trò quan trọng. Nó là dấu vết nguồn gốc đitirambơ. Có khi nó là lời phát ngôn của tác giả, có khi là lời bàn, lời phê phán, lời bình luận của công chúng, nhân dân, của lẽ phải, của lương tri, nó mang tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Đặc điểm thứ ba là các nhân vật trên sân khấu đều mang mặt nạ và đi hài cao cổ. Đặc điểm thứ tư là sân khấu có nhiều dụng cụ biểu diễn y như thật. Đặc điểm tiếp theo là đề tài những tác phẩm bi kịch còn lại hầu hết đều rút ra từ thần thoại và truyền thuyết, nhất là những truyền thuyết quen thuộc như truyền thuyết Agamennông, truyền thuyết thành Técbơ, truyền thuyết về Hêraklex, truyền thuyết thành Tơroa…Và đặc điểm cuối cùng là kết cấu từ chỗ còn hết sức đơn giản mang tính thuần túy tự sự và trữ tình đã đạt đến đỉnh cao về sự chặt chẽ lôgic.
Về nội dung, bi kịch Hi Lạp cổ đại có giá trị to lớn, viết về những con người lương thiện, dũng cảm, những anh hùng đấu tranh vì những mục đích tốt đẹp, những lí tưởng cao quý nhưng điều kiện khách quan không ủng hộ nên khiến họ thất bại. Nội dung của bi kịch đề cập qua những khó khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua nhưng có một điều là phẩm chất của họ luôn nổi bật và phẩm chất đó được gợi lên gợi cảm và hấp dẫn người đọc bằng không khí bi tráng. Các vở bi kịch là cuộc đấu tranh chống lại số mệnh, nhân vật bi kịch thất bại, lí tưởng mà họ đấu tranh không thực hiện được nhưng tinh thần của họ gợi lên sự kính phục và tin tưởng trong lòng người xem.
Các tác giả tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp là Textic, Prinixcô, Esin, Xôphôclơ, Ơripit… nhưng trong đó nổi lên ba tác giả lớn, mà tên tuổi sống mãi cùng sự trường tồn của bi kịch Hi Lạp, đó là Esin, Xôphôclơ, Ơripit. Ba nhà thơ, ba tính cách, ba cuộc đời khác nhau nhưng sự nghiệp sáng tác của họ thể hiện sự phát triển, lớn mạnh và nhất là giá trị to lớn của bi kịch Hi Lạp.
1.2. Xôphôclơ - Hôme của nghệ thuật kịch
1.2.1. Cuộc đời
Xôphôclơ được mệnh danh là nhà thơ của thời kì nền dân chủ phồn vinh. Ông sinh ra ở Côlônơ gần Aten trong một gia đình quý tộc vừa giàu vừa có quyền, ông bố là của xưởng sản xuất vũ khí nên từ nhỏ ông đã được hấp thụ một nền giáo dục toàn diện và sớm có năng khiếu thơ ca. Tương truyền rằng, năm ông 16 tuổi, ông đã chơi đàn Lia trong dàn nhạc chào mừng những người chiến thắng Xalamin trở về. Ông được mệnh danh là “người con cưng của hạnh phúc” vì có ngoại hình đẹp, lại có đầy đủ mọi tài năng về vũ, nhạc, thơ, diễn xuất…Ông đạt được các giải cao trong các cuộc thi về thơ ca, thể thao…Cuộc đời Xôphôclơ gắn liền với hai thời kì của xã hội Aten: Đó là thời kì Aten cực thịnh với triều đại Pêriklex hoàng kim và thời kì suy thoái, khủng hoảng của một Aten ôm mộng bá chủ đã dại đột đọ sức với một kẻ địch thiện chiến, quả cảm và kiên trì là Xpáctơ. Thời kì cực thịnh của nền dân chủ diễn ra sau cuộc chiến tranh Hi – La khi Aten trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất của Hi Lạp, làm bá chủ trên mặt biển và cầm đầu một đồng minh có đến 150 thành bang khác, mà thường có những cống nạp để làm giàu cho thành bang Aten. Đó cũng là thời kì Aten tiến hành xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ, nguy nga nhưng thanh thoát và trong sáng, những pho tượng tuyệt vời của Phiđiat, Praxiten ca ngợi vẻ đẹp của hình thể con người… Những thành tựu về kiến trúc và điêu khắc không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Hi Lạp mà còn là niềm tự hào của nhân loại, sau này trở thành những kì quan của thế giới. Đây cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, của khoa học chống tôn giáo… Đó là giai đoạn có một không hai của lịch sử Hi Lạp diễn ra dưới triều đại của Pêriklex – một chính khách sáng suốt, khéo léo đầy tài năng, xuất thân từ tầng lớp quý tộc công thương tiến bộ, giàu tinh thần dân chủ, tự do.
Cũng dưới triều đại của Pêriklex, Aten được coi như trung tâm của sự phát triển văn hóa, giáo dục. Nhiều trường học và trường phái triết học, khoa học đã mở ra, nhiều sáng tác văn học có giá trị lớn xuất hiện. Pêriklex trong bài diễn văn Ca ngợi Aten đã thể hiện khuynh hướng nghệ thuật của thời đại qua câu nói tiêu biểu “chúng ta yêu cái đẹp trong sự giản dị”.
Bản thân ông là nhà hoạt động xã hội được nhân dân tín nhiệm, bầu giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính quân sự dưới thời Pêriklex và Nixiax. Năm 443, ông được nhân dân bầu vào Ban quản lí ngân khố quốc gia. Năm 440, ông được bầu vào Bộ tham mưu chiến lược của Aten. Năm 411, ông được bầu vào đoàn quan tòa của thị trấn Côlôn. Ngay cả khi ông đã 80 tuổi vẫn được cử trong số 10 người đại diện của nhân dân để giải quyết những vấn đề cấp thiết. Ông tích cực tham gia những công việc thờ cúng có tính chất lễ nghi tôn giáo, do đó được nhân dân quý mến, và sau này khi ông mất, thậm chí họ còn xây cất cho ông một ngôi đền nhỏ thờ ông như một vị anh hùng.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Là nhà thơ của bi kịch, ông có một sự nghiệp rất vĩ đại: ông để lại trên 100 vở kịch nhưng hiện nay chỉ còn lại 7 vở: Ajắc, Những người phụ nữ xứ Trasi, Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êlêctơrơ, Philôctet, Êđip ở Côlônơ. Vở kịch đầu tiên của ông (nay đã thất lạc), nhan đề là Tritôlem, tương truyền rằng có sức hấp dẫn khán giả mãnh liệt đến nỗi viên accôngta tổ chức việc thi kịch đã không để cho vở kịch được chấm thi theo thủ tục thông thường mà giao nó cho các nhà chỉ huy quân sự do Ximông đứng đầu xem xét. Vở kịch đem lại giải nhất cho Xôphôclơ.
Xôphôclơ đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch bởi vì ngoài việc sáng tác, ông còn là người đã tăng thêm người diễn viên thứ ba, là người nâng số lượng đội đồng ca từ 12 lên 15 người tuy rằng đội đồng ca trong bi kịch của ông chỉ còn giữ vai trò thứ yếu. Ông cũng là người phát minh ra bối cảnh sân khấu và bỏ loại hình bộ ba vở kịch liên hoàn. Kịch của ông là chuẩn mực chân xác của chủ nghĩa cổ điển attích.
Đề tài bi kịch của ông hầu hết lấy từ những truyện thần thoại và truyền thuyết quen thuộc, như đề tài về cuộc chiến tranh thành Tơroa (Ajắc, Êlêctơrơ, Philôctet), về truyền thuyết thành Técbơ (Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êđip ở Côlônơ), và cả truyền thuyết người anh hùng Hêraklex (Những người phụ nữ xứ Trasi). Những sự kiện lịch sử và chính trị của thời đại ông không in dấu trực tiếp trong tác phẩm của ông như Esin với Quân Ba Tư hay Ơripit với những thực tế của cuộc sống con người thời bấy giờ. Ngoại trừ trường hợp người ta muốn nói đến điều đó một cách gián tiếp như trường hợp trong vở Êđip ở Côlônơ có đề cập đến việc nhà vua Têzê của Aten đã chấp nhận bảo trợ Êđíp khốn khổ của thành Tecbơ khi ông ta bị mọi người xua đuổi. Và Êđíp của Xôphôclơ đã hàm ơn bằng lời hứa là một khi thi thể ông ta được chôn cất ở Attich sẽ bảo trợ cho thành bang này “thoát khỏi mọi sự xâm phạm của những đứa con của mẹ đất” – là những kẻ xuất từ cội nguồn Catmôx.
Kịch của ông đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung và giàu tính triết lý. Xung đột trong kịch là xung đột giữa con người cao quý, trọng danh dự, tình nghĩa, giàu tính nhân bản…với những thế lực thống trị độc đoán, bạo tàn, ích kỷ, nhỏ nhen, hoặc giữa con người với tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất với số mệnh bất công nghiệt ngã, giữa thế thái nhân tình đen bạc, xấu xa với phẩm chất đạo đức của người tình sâu sắc. Kịch của ông cũng đề cập đến thân phận người phụ nữ với vấn đề hạnh phúc, tình yêu. Cho nên, khác với bi kịch của Esin miêu tả thế giới thần thánh với những mâu thuẫn và những ý chí chi phối cuộc sống của con người, bi kịch của Xôphôclơ miêu tả thế giới của con người với những đau khổ, buồn vui do chính bản thân họ gây nên. Xôphôclơ đã “kéo bi kịch từ trên trời xuống hạ giới”.
1.3. Ăngtigôn - vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ
Bi kich Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ, là vở bi kịch mẫu mực của ông về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Đề tài của tác phẩm được khai thác từ những câu chuyện về thành Técbơ, từ truyền thuyết về “nỗi bất hạnh của gia đình Êđíp” – một đề tài quen thuộc và gợi nhiều cảm hứng cho các nhà viết kịch từ xưa đến nay. Nó được trình diễn năm 412 TCN và đã được giải thưởng quốc gia trong cuộc thi bi kịch hàng năm ở Aten.
Sau khi Ơđíp chết, con trai là Êtêôclơ lên kế vị. Pôlynixơ, em của Êtêôclơ, do không tranh giành được ngôi báu với anh đã bỏ ra nước ngoài và đem quân nước ngoài về đánh lại thành Técbơ. Êtêôclơ kiên quyết bảo vệ đô thành và trong một cuộc đấu tay đôi quyết tử với Pôlynixơ, hai anh em đã tử trận. Thi hài của Êtêôclơ được Crêông, nhà vua mới, an táng trọng thể theo nghi thức dành cho các anh hùng cứu nước. Còn xác của Pôlynixơ thì bị Crêông ra lệnh vứt ra đồng làm mồi cho chim, cho chó. Ăngtigôn, em gái của Êtêôclơ và Pôlynixơ, đã kiên quyết chống lại lệnh của Crêông. Nàng bí mật đắp mộ cho Pôlynixơ. Chính vì vậy, nàng đã bị bắt và bị xử tội chết bằng cách: bị chôn sống trong nhà mồ của dòng họ. Crêông đã bất chấp tất cả để xử tội Ăngtigôn. Ăngtigôn đã tự vẫn trong nhà mồ, kéo theo cái chết của Hêmông - con trai Crêông và Ơriđit - vợ của Crêông. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh Crêông đau đớn như điên, như dại.
Vở bi kịch có thể được chia thành hai phần: Phần đầu là căng thẳng của vở bi kịch, lí tưởng của Ăngtigôn và việc thực hiện lí tưởng đó và phần sau là những tai họa tới tấp giáng xuống số phận Crêông. Từ đó, nó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa thời đại.
Đây là vở bi kịch giàu chất chiến đấu và nhân đạo. Nó lên án quyết liệt chính sách cai trị thâm tàn, độc đoán, muốn củng cố quyền lực bằng chết chóc. Nó cũng thực hiện nguyện vọng của nhân dân muốn có một chính quyền thực sự dân chủ, xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền dân chủ và quyền người, hòa hợp giữa pháp lí và nhân đạo.
1.4. Một số khái niệm
1.4.1. Bi kịch.
Đây là một trong những thể loại của kịch, thường được coi là đối lập với hài kịch.
Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính. Mối xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn...diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng. Theo Arixtốt, “Bi kịch là sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn” nhằm “dùng hành động chứ không phải bằng kể chuyện, bằng cách gây nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự thanh lọc những nỗi xúc động tương tự”. Trong bi kịch, qua cái chết của nhân vật chính, người ta tìm thấy cái thiêng liêng vô giá của sự sống chân chính và cái bất tử của cộng đồng.
Bi kịch ra đời rất sớm ở Hi Lạp cổ đại, bắt nguồn từ những nghi lễ thờ cúng thần rượu nho Điônizôx. Từ đó, kịch không ngừng phát triển và ngày càng hoàn thiện. Vào thế kỉ XVI – XVII, ở một số nước châu Âu, bi kịch là thể loại văn học – sân khấu rất thịnh hành với những tác giả lớn như: Sếchxpia, Coócnây...
1.4.2. Hình tượng nghệ thuật.
Trong cuố