1.Lí do chọn đề tài
Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay.Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng địng: dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, nó có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển của con người và xã hội.
Tư tưởng dân chủ chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa của giá trị dân chủ nhân loại.
2.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng vấn đề dân chủ, thấy được tầm quan trọng của nó trong đời sống xã hội và coi dân chủ là mục đích chính trị trực tiếp của cách mạng.Đời sống xã hội cần đến dân chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động của nó, trước hết là trong chính trị và kinh tế.Đây là hai bộ phận quan trọng của hình thái kinh tế - xã hội.Sự phát triển của kinh tế tùy thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó không thể thiếu vai trò của dân chủ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà hạt nhân là lợi ích của các chủ thể kinh tế.Cũng như vậy, dân chủ trong chính trị nhằm thúc đẩy chính trị phát triển.Chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia, mà vấn đề quan trọng nhất của nó là tổ chức chính quyền Nhà nước.Cho nên, thiếu dân chủ trong chính trị tất sẽ dẫn đến chính trị độc tài, chuyên quyền, sẽ đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị lý luận của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái niệm dân chủ: Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ.Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân.Họ trở thành người chủ của đất nước.
Dân là chủ đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong chế độ chính trị, trong xã hội và Nhà nước thuộc về người dân. Dân là chủ đối lập với nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị bọn thực dân thống trị.
3. Phạm vi đề tài
Dân là chủ còn biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân.
Nhưng nếu dân chủ chỉ dừng lại ở chỗ Dân là chủ thì chưa hoàn thiện mà còn là Dân làm chủ.Làm chủ phản ánh năng lực thực thi dân chủ của người dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm.; đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính địa vị người chủ và năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm chủ nó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế Nhà nước.
Địa vị và năng lực đó biểu hiện ra trong sự vận động của chính trị đó là: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” .Như vậy, dân là chủ thể gốc của quyền lực và Nhà nước là chủ thể đại diện cho dân.Nhà nước là một vật thể mà dân là chủ sở hữu, là chủ thể ủy quyền, Nhà nước thực hiện sự ủy quyền của dân.
Thực hiện sự kết hợp và thống nhất năng lực và địa vị của người chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là gì. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Và: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”. Hay như: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” và “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chính quyền dân chủ có nghĩa chính là quyền do người dân làm chủ”.
4. Phương pháp thực hiện
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac – Lenin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
Áp dụng kiến thức từ các phép biện chứng của triết học để phân tích thực tế. Áp dụng các cặp pham trù của triết học như: nguyên nhân-kết quả, cái chung-cái riêng, tất nhiên-ngẫu nhiên để phân tích đề tài.
Vận dụng sự hiểu biết cá nhân và tham khảo các tài liệu.
5.Kết quả thực hiện đề tài
Phân tích được vai trò của dân chủ trong xã hội.
Đưa ra những lí luận thực tế về dân chủ.Giúp mọi người hiểu thêm vè dân chủ ở nước ta hiện nay.
Đưa ra các giải pháp để phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực.
45 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5793 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hồ Chí Minh về dân chủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
(((((
TIỂU LUẬN MÔN: TƯ TƯỞNG HỔ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
GVHD: VÕ DUY PHÁN
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài này nhóm đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân, đơn vị, tổ chức.
Đầu tiên nhóm em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM đã tạo mọi điều kiên cho chúng em học tập và làm việc.
Xin cảm ơn khoa lí luận chính tri đã cung cấp giáo trình và tài liệu học tập cho chúng em.
Xin cảm ơn thư viện trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM đa tạo điều kiện cho chúng em học nhóm và tìm kiếm tử liệu và thong tin.
Xin cám ơn các trang web đã giúp chúng em tìm thong tin một cách dễ dàng.
Và cuối cùng em xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy VÕ DUY PHÁN đã tận tình hướng dân chúng em làm tiểu luận này.
Bài tiều luận của nhóm tuy đã được đầu tư rất kĩ càng nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót mong nhận được nhũng góp ý từ mọi người để rút kinh nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU 4
1.Lí do chọn đề tài 4
2.Tính cấp thiết của đề tài 4
3. Phạm vi đề tài 5
4. Phương pháp thực hiện 6
5.Kết quả thực hiện đề tài 6
II. PHẦN NỘI DUNG 7
1.Các quan điểm lí luận liên quan đến dân chủ 7
1.1Quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin về dân chủ: 7
1.2. Những quan điểm mới về dân chủ 8
1.2.1. Quan điểm của Thế Giới 8
1.2.2. Quan điểm mới của Đảng 11
1.3. Quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ 13
2.Thực trạng của dân chủ: 15
2.1.Khái lược lịch sử của vấn đề Dân chủ 15
2.2. Mặt tích cực 16
2.4.Nguyên nhân: 30
2.4.1.Nguyên nhân tích cực: 32
2.3. Mặt tiêu cực: 32
2.4.2.Nguyên nhân tiêu cực: 32
2.5. Giải pháp 33
3. Kết luận, kiến nghị: 40
3.1Kết luận 40
3.2Kiến Nghị 41
I-PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay.Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng địng: dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, nó có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển của con người và xã hội.
Tư tưởng dân chủ chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa của giá trị dân chủ nhân loại.
2.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng vấn đề dân chủ, thấy được tầm quan trọng của nó trong đời sống xã hội và coi dân chủ là mục đích chính trị trực tiếp của cách mạng.Đời sống xã hội cần đến dân chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động của nó, trước hết là trong chính trị và kinh tế.Đây là hai bộ phận quan trọng của hình thái kinh tế - xã hội.Sự phát triển của kinh tế tùy thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó không thể thiếu vai trò của dân chủ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà hạt nhân là lợi ích của các chủ thể kinh tế.Cũng như vậy, dân chủ trong chính trị nhằm thúc đẩy chính trị phát triển.Chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia, mà vấn đề quan trọng nhất của nó là tổ chức chính quyền Nhà nước.Cho nên, thiếu dân chủ trong chính trị tất sẽ dẫn đến chính trị độc tài, chuyên quyền, sẽ đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị lý luận của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái niệm dân chủ: Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ.Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân.Họ trở thành người chủ của đất nước.
Dân là chủ đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong chế độ chính trị, trong xã hội và Nhà nước thuộc về người dân. Dân là chủ đối lập với nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị bọn thực dân thống trị.
3. Phạm vi đề tài
Dân là chủ còn biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân.
Nhưng nếu dân chủ chỉ dừng lại ở chỗ Dân là chủ thì chưa hoàn thiện mà còn là Dân làm chủ.Làm chủ phản ánh năng lực thực thi dân chủ của người dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm...; đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính địa vị người chủ và năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm chủ nó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế Nhà nước.
Địa vị và năng lực đó biểu hiện ra trong sự vận động của chính trị đó là: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” .Như vậy, dân là chủ thể gốc của quyền lực và Nhà nước là chủ thể đại diện cho dân.Nhà nước là một vật thể mà dân là chủ sở hữu, là chủ thể ủy quyền, Nhà nước thực hiện sự ủy quyền của dân.
Thực hiện sự kết hợp và thống nhất năng lực và địa vị của người chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là gì. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Và: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”. Hay như: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” và “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chính quyền dân chủ có nghĩa chính là quyền do người dân làm chủ”.
4. Phương pháp thực hiện
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac – Lenin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
Áp dụng kiến thức từ các phép biện chứng của triết học để phân tích thực tế. Áp dụng các cặp pham trù của triết học như: nguyên nhân-kết quả, cái chung-cái riêng, tất nhiên-ngẫu nhiên… để phân tích đề tài.
Vận dụng sự hiểu biết cá nhân và tham khảo các tài liệu.
5.Kết quả thực hiện đề tài
Phân tích được vai trò của dân chủ trong xã hội.
Đưa ra những lí luận thực tế về dân chủ.Giúp mọi người hiểu thêm vè dân chủ ở nước ta hiện nay.
Đưa ra các giải pháp để phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực.
II-PHẦN NỘI DUNG
1.Các quan điểm lí luận liên quan đến dân chủ
1.1Quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin về dân chủ:
Theo chủ nghỉa mac-lenin dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Ngay từ xã hội công xã nguyên thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã biết tự tổ chức ra những hoạt động có tính cộng đồng,các thành viên công xã đều bình đẳng tham gia vào công việc xã hội. Việc cử ra những người dứng đầu cộng đồng và phế bỏ những người đứng đầu nếu không thực thi những quy định chung được giao cho mọi thành viên công xã quyết định thông qua đại hội “nhân dân”. Đây được coi là hình thức dân chủ sơ khai, chức phát của những tổ chức cộng đồng tự trong xã hội chưa có giai cấp.
Dựa trên những thực tiễn của lịch sử như là:từ thế kỉ VIII- trCN với nhà nước dầu tiên trong lịch sử, giai cấp tư hữu, áp bức bốc lột, giai cấp chủ nô đã dùng pháp luật và bộ máy thống trị của mình để chiếm mất quyền lực của nhân dân. Thời trung cồ giai cấp địa chủ-phong kiến với những thể chế nhà nước có tính độc tài, chuyên chế gần như xóa bỏ quyền dân chủ của nhân dân. Cách mạng dân chủ tư sản TKXVII-XVIII ở châu âu, với tuyên bố “tự do, bình đẳng, bác ái”, nền dân chủ tưởng chừng được khôi phục, nhưng “xã hội công dân” tư sản thực chất chỉ là một nền dân chủ trá hình, mị dân. Thực tế, chế độ hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn là thế lực kinh tế áp bức bóc lột người lao động, quyến lực của nhân dân vẫn bị cướp đoạt một cách công khai pháp quyền tư sản. Đến khi cách mạng tháng mười Nga thành công, lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động giành lại thắng lợi quyền lực của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng trở thành nhà nước đầu tiên của nhân dân.
Thấy được sự tồn tại và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa mac-lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về dân chủnnhư sau:
Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân,dân chủ là sự phản ánh cũa giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất công.
Thứ hai ,dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị. Khi dân chủ còn gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”,”dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này đả loại trừ hay hạn chế dân chủ của các tập đòan người khác.Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị.Điều này là tất yếu cho mọi chế độ dân chủ, kể cả chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, dân chủ còn hiểu được với tư cách là một trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và no dịch, để tiến tới tự do, bình đẳng.
1.2. Những quan điểm mới về dân chủ
1.2.1. Quan điểm của Thế Giới
ÐỊNH NGHĨA DÂN CHỦChính phủ của nhân dân
Dân chủ có thể là một từ quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một khái niệm vẫn bị hiểu sai và sử dụng sai khi các chế độ chuyên chính và các chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng bằng cách tự gắn cho mình cái mác dân chủ. Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng dân chủ cũng đã tạo nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất trong lịch sử của ý chí và trí tuệ con người: từ Pericles thời Aten cổ đại tới Vaclav Havel ở Cộng hòa Séc hiện đại, từ Tuyên ngôn Độc lập của Thomas Jefferson năm 1776 tới các bài diễn văn cuối cùng của Andrei Sakharov năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
Tự do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai từ này không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các thủ tục đã được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường không bằng phẳng, của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể định rõ được các nguyên tắc cơ bản đã được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xã hội nào được gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
Các thể chế dân chủ được phân ra hai loại cơ bản: trực tiếp và đại diện. Trong nền dân chủ trực tiếp, mọi công dân, không cần thông qua trung gian là các đại diện được bầu hay chỉ định, có thể tham gia vào quá trình đưa ra các quyết định cho các vấn đề xã hội. Một hệ thống như thế rõ ràng chỉ có thể thực hiện được với một số tương đối ít người, ví dụ như trong một tổ chức cộng đồng hay một hội đồng bộ lạc nào đó hay một đơn vị cấp cơ sở của một liên đoàn lao động, khi mà các thành viên có thể gặp gỡ nhau trong một phòng họp để bàn bạc, thảo luận các vấn đề và đi tới quyết định bằng sự đồng thuận hoặc theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Những người Aten cổ đại, những người lập ra thể chế dân chủ đầu tiên, đã thực hiện kiểu dân chủ trực tiếp với một hội đồng bao gồm số lượng thành viên từ 5.000 đến 6.000 người- có thể đây là số lượng tối đa để có thể tập hợp được ở một địa điểm và thực hiện sự dân chủ trực tiếp.
Xã hội hiện đại, với quy mô và tính phức tạp của nó, ít có cơ hội cho dân chủ trực tiếp. Ngay như ở vùng đông bắc Hoa Kỳ, nơi mà cuộc họp thị trấn New England đã thành một truyền thống thiêng liêng, thì hiện nay hầu hết các cộng đồng đã phát triển lớn tới mức không thể tập hợp được tất cả cư dân ở một nơi để tiến hành biểu quyết trực tiếp cho các vấn đề có tác động tới cuộc sống của chính họ.
Ngày nay, dù là đối với một thị trấn 50.000 người hay một đất nước trên 50 triệu người, hình thức dân chủ phổ biến nhất là hình thức dân chủ đại diện trong đó công dân bầu ra các công chức là những người đưa ra các quyết định chính trị, xây dựng pháp luật và quản lý các chương trình vì lợi ích công cộng. Nhân danh nhân dân, các công chức đó phải cân nhắc kỹ càng các vấn đề công cộng phức tạp theo một quá trình có tính hệ thống và chu đáo, quá trình này đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và sức lực mà thường không thể thực hiện được đối với một số đông các công dân đơn lẻ.
Có nhiều cách rất khác nhau để bầu ra các vị công chức. Ví dụ, ở cấp quốc gia, các nhà lập pháp có thể được chọn lựa từ các khu vực bầu cử mà mỗi khu vực bầu cử bầu một đại diện ứng cử duy nhất. Theo một cách khác gọi là hệ thống đại diện theo tỷ lệ, mỗi đảng chính trị được đại diện trong cơ quan lập pháp theo tỷ lệ đạt được trong tổng bầu cử quốc gia. Bầu cử tại tỉnh hay địa phương cũng có thể theo cách bầu cử quốc gia hoặc bằng cách nhẹ nhàng hơn thông qua sự đồng thuận của các nhóm thay cho bầu cử. Dù được bầu theo cách nào thì các vị công chức trong nền dân chủ đại diện cũng phải hoạt động và làm việc nhân danh nhân dân và luôn phải chịu trách nhiệm cho các hành động của họ trước nhân dân.
Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số
Các nền dân chủ là các hệ thống trong đó mọi công dân được tự do đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Nhưng nguyên tắc đa số cũng chưa phải là dân chủ: ví dụ, không ai có thể gọi một hệ thống là công bằng hoặc bình đẳng nếu hệ thống đó chấp nhận cho 51% dân số đàn áp 49% dân số còn lại với nhân danh đa số cả. Trong một xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải được ràng buộc với sự đảm bảo cho các quyền con người của cá nhân, các quyền này, đến lượt nó, lại đóng vai trò bảo vệ quyền lợi cho các nhóm thiểu số dù đó là dân tộc ít người, nhóm tôn giáo hay chính trị hoặc chỉ đơn giản là những người thua cuộc trong tranh luận về một vấn đề lập pháp nào đó. Các quyền của thiểu số không phụ thuộc vào ý nguyện của bên đa số và cũng không thể bị loại bỏ bởi biểu quyết đa số. Các quyền lợi của thiểu số được bảo vệ bởi vì các luật và định chế dân chủ bảo vệ quyền lợi cho mọi công dân.
Diane Ravitch, một học giả, tác giả và là cựu Trợ lý Bộ trưởng Giáo dục Hoa Kỳ đã viết trong một bản tham luận cho hội thảo giáo dục tại Ba Lan: “khi một thể chế dân chủ kiểu đại diện hoạt động đúng theo hiến pháp mà hiến pháp đó có quy định giới hạn cho quyền lực của chính phủ đồng thời đảm bảo các quyền cơ bản cho mọi công dân, thì chính phủ đó được gọi là nền dân chủ lập hiến. Trong một xã hội như thế, các nguyên tắc đa số và các quyền thiểu số được bảo vệ bởi luật và thông qua sự thể chế hóa các điều luật”.
Đây chính là các thành phần cơ bản cho mọi thể chế dân chủ hiện đại cho dù nó có thể thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử, văn hóa hay kinh tế. Mặc dù có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa các dân tộc và xã hội, các yếu tố cơ bản như chính phủ lập hiến, nguyên tắc đa số kết hợp với quyền thiểu số, quyền cá nhân và nguyên tắc pháp quyền đều có thể tìm thấy ở Canađa và Costa Rica, Pháp và Bốtsoana, Nhật Bản và Ấn Độ.
Xã hội dân chủ
Dân chủ không chỉ là một tập hợp các quy định của hiến pháp và các thủ tục để xác định cách thức hoạt động cho chính phủ. Trong một thể chế dân chủ, chính phủ chỉ là một thành phần cùng tồn tại trong một kết cấu xã hội bao gồm rất nhiều các định chế khác nhau, các đảng chính trị, các tổ chức và các hiệp hội. Tính chất đa dạng này được gọi là đa nguyên và thể chế dân chủ đó quy định sự tồn tại, tính pháp lý hay quyền lực của các tổ chức và các định chế khác trong một xã hội dân chủ không phụ thuộc vào chính phủ.
Trong một xã hội dân chủ luôn có hàng ngàn các tổ chức tư nhân hoạt động ở cấp địa phương hay quốc gia. Rất nhiều trong số các tổ chức đó đóng vai trò trung gian giữa các cá nhân và các định chế của chính phủ hay các tổ chức xã hội phức tạp khác mà họ cũng là một thành phần, hoặc thực hiện các vai trò, nhiệm vụ mà chính phủ không được giao và tạo cơ hội cho các cá nhân thực hiện quyền và trách nhiệm của mình với tư cách là công dân của một thể chế dân chủ.
Các nhóm này thể hiện quyền lợi của thành viên của họ theo rất nhiều cách: ủng hộ các ứng cử viên vào các vị trí trong các cơ quan công quyền, tranh luận các vấn đề và cố gắng tạo ảnh hưởng lên các quyết định chính trị. Chỉ thông qua các nhóm như thế, các cá nhân mới có được con đường để tham gia một cách có ý nghĩa vào cả chính phủ và các cộng đồng của chính họ. Có rất nhiều ví dụ cho các nhóm như thế: các tổ chức nhân đạo và nhà thờ, các nhóm môi trường và thân hữu, các hiệp hội kinh doanh và các liên đoàn lao động.
Trong một xã hội chuyên quyền, các tổ chức như thế bị kiểm soát, phải có giấy phép hoạt động và bị theo dõi hoặc phải báo cáo với chính phủ. Trong một thể chế dân chủ, quyền lực của chính phủ được xác định rõ ràng và bị giới hạn chặt chẽ bởi luật. Kết quả là các tổ chức tư nhân như thế được tự do, không bị chính phủ kiểm soát; mà ngược lại, rất nhiều các tổ chức đó vận động chính phủ và tìm cách nâng cao trách nhiệm của chính phủ đối với các hành động của chính phủ. Một số tổ chức khác quan tâm tới các vấn đề nghệ thuật, thực hiện đức tin tôn giáo, nghiên cứu học thuật hoặc các vấn đề khác có thể tiếp xúc ít hay hoàn toàn không tiếp xúc với chính phủ.
Trong một xã hội dân chủ có nhiều nhóm khác nhau, các công dân đều có thể khai thác mọi khả năng tự do và trách nhiệm đối với vấn đề tự quản lý mà không bị sức ép của bất kỳ bàn tay quyền lực nào của nhà nước.
1.2.2. Quan điểm mới của Đảng
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ:Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ trong xã hội là một nội dung lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của tòan dân tộc, khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ... Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa nằm trong hệ mục tiêu của đổi mới, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là một trong năm bài học lớn của đổi mới. Đảng ta nhận thức rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện, nhân dân là chủ thể của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước là người nhận quyền lực xã hội do nhân dân ủy giao phó để tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, làm điều lợi, tránh điều hại cho dân, chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của