Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất cả phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung.
Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh. Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu. Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình. hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
23 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạch định tài chính của tập đoàn Exxon Mobil vào quý I năm 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU (((
Mục đích của phân tích báo cáo tài chính: Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất cả phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung. Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh. Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu. Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình. hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.Vai trò của hoạch định tài chínhHoạch định là quá trình phát triển các kế hoạch tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Các kế hoạch tài chính có đặc trưng cơ bản là được trình bày bằng đơn vị đo lường chung là tiền tệ. Vì vậy, hệ thống kế hoạch tài chính đóng vai trò quan trọng, then chốt trong việc lập kế hoạch và kiểm soát của doanh nghiệp. Các kế hoạch của doanh nghiệp cần xác định mục tiêu và những hành động cần thực hiện để đạt được mục tiêu. Mọi hoạt động cần phải sử dụng nguồn lực chung của doanh nghiệp. hoạch định tài chính thông qua hệ thống với các ngân sách với khả năng sử dụng đơn vị chung sẽ dễ dàng lượng hóa các mục tiêu, cụ thể hóa, và tổng hợp việc sử dụng các nguồn lực. Do vậy, ngân sách cũng được sử dụng cho mục tiêu kiểm soát, trong đó thiết lập các tiêu chuẩn tiếp nhận các thông tin phản hồi về hiệu suất thực tế và tiến hành các hoạt động hiệu chỉnh nếu hiệu suất thực tế lệch nhiều so với hiệu suất kế hoạch.Mục tiêu của hoạch định tài chínhCác ngân sách thường được xây dựng cho các bộ phận trong tổ chức( phòng ban, xí nghiệp, đơn vị…) và cho các hoạt động ( bán hang, sản xuất, nghiên cứu…). Hệ thống các ngân sách này phục vụ cho kế hoạch tài chính của tổ chức và đem lại nhiều lợi ích cho tổ chức bao gồm:- Thúc đẩy các nhà quản trị lập kế hoạch. - Cung cấp nguồn thông tin để cải thiện việc ra quyết định. - Giúp ích cho việc sử dụng các nguồn lực và quản lý nhân sự thông qua việc thiết lập tiêu chuẩn đánh giá hiệu suất.- Cải thiện vấn đề truyền thông và hợp tác. hoạch định thúc đẩy các nhà quản trị lập kế hoạch cho tương lai để phát triển đinh hướng chung cho toàn tổ chức, dự đoán trước các vấn đề và xây dựng chính sách cho tương lai. Khi các nhà quản trị dành thời gian cho việc làm kế hoạch họ sẽ nhận ra các nhân lực của tổ chức và biết đuợc nên sủ dụng nguồn lực của tổ chức vào vị trí nào.Tất cả các doanh nghiệp và các tổ chức phi lợi nhuận đều phải lập kế hoạch. Ngân sách giúp các nhà quản trị ra các quyết đinh tốt hơn. Ngân sách lập ra các tiêu chuẩn và nhờ đó có thể kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực công ty cũng như kiểm soát thúc đẩy nhân viên. Kiểm soát là nền tảng cho sự thành công của hệ thống ngân sách, nó đảm bảo cho các hoạt động được thực hiên để đạt được những mục tiêu mà tổ chức đặt ra trong kế hoạch tổng quát. Ngân sách cũng phục vụ cho việc truyền thông các kế hoạch của tổ chức đến từng nhân viên và kết hợp các nỗ lực lại với nhau, theo đó nhân viên có thể hiểu được vai trò của họ trong việc đạt được các mục tiêu chung. Các ngân sách thúc đẩy được sự hợp tác vì các lĩnh vực và các chức năng khác nhau trong tổ chức đều phải cùng làm việc để đạt được mục tiêu dề ra. Vai trò của truyền thông và hợp tác trở nên càng quan trọng khi tổ chức phát triển mạnh hơn về mặt quy mô. Đặc điểm của kế hoạt tài chính:- Kế hoạch tài chính là sự phối trí tất cả các chương trình hành động của doanh nghiệp trong một khoản thời gian trên cơ sở tiền tệ- Thông quan kế hoạch tài chính người ta phân bổ và tìm kiếm các cho từng chương trình- Kế hoạch tài chính thể hiện tổng hợp mục tiêu của các hoạt động doanh nghiệp ở mỗi thời kỳ thông qua các chỉ tiêu như doanh số, lợi nhuận, tăng trưởng của tài sản…- Kế hoạch tài chính như là biện pháp để thực hiện các mục tiêu. Vì thế việc lập kế hoạch tài chính có thể thực hiện bằng cách tổng hợp các chương trình hay triển khai thực hiện các mục tiêu thông qua việc sử dụng các nguồn lực trên phương diện tiền tệ hoặc cả hai. Phương pháp diễn giải:Phương pháp cho rằng kế hoạch tài chính là sự chuẩn bị những điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu, vì vậy việc lập kế hoạch tài chính xuất phát từ những mục tiêu tổng quát, ở cấp cao hay từ yêu cầu từ các cổ đông, sau đó cụ thể hóa thành các ngân sách ở các bộ phận nhằm thực hiện mục tiêu. Quá trình diễn giải này được kiểm tra lại trên cơ sở tính hợp lý và cân đối giữa các chương trình Đề tài của chúng tôi gồm có 3 phần:- Giới tiệu khái quát về tập đoàn Exxon Mobil và tình hình tài chính của tập đoàn này trong thời gian 2007 và 2008.- Hoạch định tài chính của Doanh nghiệp vào quý I/2009.- Đánh giá tình hình tài chính của Doanh nghiệp sau khi hoạch định.
HOẠCH ĐỊNH
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TẬP ĐOÀN EXXON MOBIL VÀ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN NÀY TRONG THỜI GIAN 2007, 2008:
Giới thiệu khái quát về tập đoàn:
Exxon Mobil, Công ty dầu lớn nhất thế giới, Công ty thành lập vào năm 1999 với sự sáp nhập của hai công ty Exxon và Mobil. Exxon Mobil explores cho refines và xăng dầu và khí tự nhiên; sản xuất các sản phẩm dầu mỏ; bán dầu mỏ, khí đốt, và xăng dầu và vận hành các trạm dịch vụ trên toàn thế giới. Công ty cũng tham gia vào các ngành công nghiệp hoá chất và khoáng sản. Trụ sở chính của nó là ở Irving, Texas.
Cả Tổng công ty Exxon Mobil và công ty của họ truy gốc vào tiêu chuẩn công ty Dầu khí, được thành lập của Mỹ industrialist John D. Rockefeller và 1870 trong đó dominated the US năng lượng trong các ngành công nghiệp đầu thế kỷ 20.. Rockefeller và các associates tạo ra các tiêu chuẩn dầu Trust 1882 để thống nhất trong rất nhiều các công ty dầu trên toàn Hoa Kỳ. Tiêu chuẩn dầu sớm sở hữu 90 phần trăm dầu refineries ở Hoa Kỳ và đã có một cuộc họp ảo độc quyền trên thị trường các thiết bị.
Trong các Ohio 1892 Tòa án tối cao lệnh các tiêu chuẩn của Công ty Dầu Ohio để tách biệt sự tin tưởng và trở thành một việc kinh doanh độc lập. Kết quả là, sự tin tưởng và sự tan executives của các Tiêu chuẩn Dầu conglomerate reorganized và củng cố các doanh nghiệp vào 20 công ty. Tiêu chuẩn này bao gồm dầu của New Jersey, còn được gọi là Tiêu chuẩn Jersey, mà thay đổi tên của nó trong 1892 để tiêu chuẩn công ty Dầu khí (New Jersey), và các tiêu chuẩn công ty dầu New York, cũng được biết đến như là Socony. Trong tiêu chuẩn 1899 Jersey đã trở thành trung tâm tổ chức các công ty cho toàn bộ tổ chức.
Trong 1911 của Tòa án tối cao của Hoa Kỳ xuống một tay chống độc ruling so với tiêu chuẩn công ty Dầu khí (New Jersey), tuyên bố rằng tất cả các tiêu chuẩn của các chi nhánh Dầu tiếp tục hành động như là một độc quyền. Dầu đã được tiêu chuẩn buộc phải đột nhập vào 34 công ty riêng biệt, không còn theo kiểm soát tập trung, bao gồm các tiêu chuẩn và Socony Jersey.
Exxon các Tổng Công ty phát triển từ Jersey tiêu chuẩn. Trong 1919 Jersey tiêu chuẩn mua một nửa Humble & lọc dầu của Công ty Texas. Humble đã tăng trưởng thành một công ty dầu lớn Hoa Kỳ và kết hợp với các tiêu chuẩn trong Jersey 1959. Từ 1917 đến 1937 Jersey tiêu chuẩn mở rộng đáng kể các cơ sở sản xuất dầu và các Holdings ở Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Phi, và Châu Á.
Bắt đầu từ 1920, Jersey tiêu chuẩn được sử dụng tên Esso (bắt nguồn từ tên viết tắt của Standard Oil) cho nhiều sản phẩm và dịch vụ nhà ga. Cuối cùng, nhiều người trong số ban đầu các chi nhánh của Standard Oil Trust objected Jersey để sử dụng các tiêu chuẩn của Esso. Sau khi một số tòa án rulings của nó đối với việc sử dụng tên, đổi tên thành tiêu chuẩn Jersey Exxon chính năm 1972 và ngừng sử dụng tên Esso ở Hoa Kỳ. Nó tiếp tục sử dụng các tên Esso tại nhiều các quốc gia khác.
Năm 1990 Exxon của nó di chuyển trụ sở chính từ Thành phố New York vào Irving, bang Texas, chỉ cần bên ngoài Dallas. Trong giữa những năm 1990 của công ty nhấn tất cả các lợi nhuận trong thời gian highs, sparked của một ổn định của giá dầu quốc tế, của công ty thành công trong khai thác, và giảm chi phí vận hành của hàng tỷ.
Năm 1989 một trong các Exxon của dầu tankers, các Exxon Valdez, chạy aground tại Alaska's Prince William Sound, spilling gần 42 triệu lít (11 triệu gallon) dầu, hoặc khoảng 260.000 barrels. Spill the ranks như là một trong những tệ nhất về môi trường thiên tai bao giờ hết. Những sự kiện đau đớn cho công ty tài chính và các mối quan hệ công chúng là một thiên tai, đặc biệt là sau khi chiếc tàu của Captain, Joseph Hazelwood, nhập vào tiêu thụ nhiều đồ uống có cồn trước khi tai nạn. Cán bộ công ty cũng phải đối mặt với những lời chỉ trích cho đợi mười giờ sau khi bị tai nạn trước khi triển khai booms để chứa spill. Exxon chi $ 2,5 tỷ cho dọn dẹp và trả tiền khoảng $ 1 tỷ trong các dàn xếp, hình phạt, và phạt. Năm 1994 một chính phủ liên bang quy định rằng jury của Exxon "recklessness" nguyên nhân gây ra các spill và đặt hàng của công ty để trả tiền là $ 5 tỷ mỹ trong thiệt hại. Công ty nộp một kháng cáo của ruling vào năm 1997, và năm 2006 Ninth Circuit Toà án Kháng cáo giảm jury của những giải thưởng đến $ 2,5 tỷ đồng. Exxon khiếu nại này ruling, cũng như, và trong năm 2008 của Tòa án tối cao của Hoa Kỳ giảm bớt các thiệt hại giải thưởng đến $ 500 triệu, hoặc trung bình khoảng $ 15.000 cho mỗi của 33.000 plaintiffs, chủ yếu là các Fishers và người dân có được đời sống của các harmed spill.
Các Di Động Công ty Cổ phần phát triển từ Jersey tiêu chuẩn của nước tại New York, Socony. Trong 1831 Socony khác descendant kết hợp với các tiêu chuẩn dầu Trust, các Máy hút dầu của Công ty Rochester, New York. Các kết quả của công ty thay đổi tên của nó để Socony-Công ty Máy hút dầu, hoặc SVO, trong 1934. Năm 1948 SVO mua một trong 10 phần trăm lãi suất Arabian Mỹ Công ty Dầu khí, được thành lập để khai thác dầu trữ khổng lồ tại Saudi Arabia. Trong 1955 công ty đổi tên thành Công ty Dầu Socony Di Động, Inc-sau khi một trong các sản phẩm ban đầu, và trong Mobiloil-1966 cho Công ty Dầu Mobil, Inc.
Khi giá dầu đã bắt đầu vào mùa thu lại trong những năm 1980, Di Động được tìm thấy chính nó vào khóa dài hạn cho các hợp đồng đắt Saudi Arabian dầu thô. Công ty trả lời bằng cách bán $ 8,4 tỷ đồng và tài sản của mình bằng cách giảm lao động. Công ty được bán các trạm dịch vụ trong 20 tiểu bang Hoa Kỳ, trong khi đầu tư quá nhiều vào khai thác. Trong giữa những năm 1990 công ty được phát hiện lớn nhất thế giới lĩnh vực khí đốt tự nhiên ngoài bờ biển Ca-ta và tham gia liên doanh với các công ty khác để phát triển lĩnh vực dầu ở Malaysia, Kazakhstan, và Việt Nam.
Năm 1973 giá dầu quadrupled sau khi các quốc gia Ả Rập thuộc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu khí (OPEC) áp dụng một sáu tháng embargo dầu trên các quốc gia phương Tây mà Israel đã được hỗ trợ trong khi A-rập-Israel War of 1973. Việc tăng giá cả gây ra Di Động của người bán hàng cho người gần ba giữa 1973 và 1977. Di Động Công ty Dầu khí đã thay đổi tên của nó một lần nữa năm 1976, để Công ty Cổ phần Di Động. Tám năm sau đó công ty giữ bolstered của nó với các siêu mua công ty dầu với giá $ 5,7 tỷ đồng.
Trong tháng 12/ 1998, Exxon công bố các kế hoạch để thu được Di động và hình thức một trong những công ty, được gọi là tổng công ty Exxon Mobil. Việc sap snhập hoàn thành vào tháng 10/ 1999 và trị giá $ 81 tỷ đồng, đã được củng cố công nghiệp lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Trong năm 2006 Exxon Mobil ghi nhận lợi nhuận năm nhất của bất kỳ công ty trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong thời gian 1 năm mà thấy ghi lại giá cho dầu thô và xăng, công ty giành được trong hồ sơ của $ lợi nhuận 39,5 tỷ đồng.
Tình hình tài chính của tập đoàn Exxon Mobil trong thời gian 2007 và 2008:
Trong năm 2007 tài chính của công ty giảm sút đến năm 2008 doanh thu tăng cao và các khoản thu khác cũng tăng, hoạt động kinh doanh khả quan hơn. Từ đó có thể hoạch định tình hình tài chính của công ty cho năm tới.
Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 và 2008:
STT
KHOẢN MỤC
2007
2008
1
Doanh thu về BH & CCDV
404,552,000
477,359,000
2
Giá vốn hàng bán
232,852,000
288,810,000
3
Chi phí BH & QLDN
87,571,000
92,100,000
4
Lợi nhuận gộp BH & CCDV
171,700,000
188,549,000
5
Khấu hao
12,250,000
12,379,000
6
Lợi nhuận thuần từ hoạt động KD
71,879,000
84,070,000
7
Thu nhập khác
0
0
8
Chi phí khác
1,005,000
1,647,000
9
Lợi nhuận khác
(1,005,000)
(1,647,000)
10
Lợi nhuận kế toán trước thuế và lãi
70,874,000
82,423,000
11
Doanh thu từ hoạt động tài chính
40,610,000
45,220,000
12
Chi phí lãi
400,000
673,000
13
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
70,474,000
81,750,000
14
Thuế TNDN
29,864,000
36,530,000
15
Lợi nhuận sau thuế TNDN
50,741,280
58,860,000
16
Trả cổ tức
8,433,000
7,910,000
17
Lợi nhuận giữ lại
32,177,000
37,310,000
Bảng cân đối kế toán năm 2007 và 2008:
STT
KHOẢN MỤC
NĂM
TÀI SẢN
2007
2008
1
Tiền và các khoản tương đương tiền
33,981,000
31,437,000
2
Đầu tư ngắn hạn
519,000
570,000
3
phải thu KH
36,450,000
24,702,000
4
Hàng tồn kho
11,089,000
11,646,000
5
Tài sản ngắn hạn khác
3,924,000
3,911,000
6
Tổng tài sản ngắn hạn
85,963,000
72,266,000
7
Tài sản cố định
120,869,000
121,346,000
8
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
28,194,000
28,556,000
9
Tài sản vô hình
7,056,000
0
10
Tài sản khác
0
5,884,000
11
Tổng tài sản
242,082,000
228,052,000
Nguồn Vốn
12
Nợ phải trả
55,929,000
46,700,000
13
Vay và nợ ngắn hạn
2,383,000
2,400,000
14
Tổng nợ ngắn hạn
58,312,000
49,100,000
15
Nợ dài hạn
21,549,000
7,025,000
16
Nợ khác
13,278,000
34,678,000
17
Chi phí nợ dài hạn
22,899,000
19,726,000
18
Lãi vay
4,282,000
4,558,000
19
Tổng nợ
120,320,000
115,087,000
20
Vốn chủ sở hữu
4,933,000
5,314,000
21
Lợi nhuận giữ lại
228,518,000
265,680,000
22
Cổ tức ưu đãi
(113,678,000)
(148,098,000)
23
Vốn chủ sở hữu khác
1,989,000
(9,931,000)
24
Tổng nguồn vốn chủ sở hữu
121,762,000
112,965,000
25
Tổng nguồn vốn
242,082,000
228,052,000
Tình hình sản xuất kinh doanh cụ thể của Exxon Mobil trong 2 năm vừa qua:
Upstream thu được $ 8.785 triệu, tăng $ 2.744 triệu đồng từ quý I năm 2007. Hồ sơ cao, dầu thô và khí tự nhiên realizations tăng thu nhập khoảng $ 4,4 tỷ đồng. Khối lượng và kết hợp hiệu ứng giảm thu khoảng $ 800 triệu, như gia tăng lượng khí đốt tự nhiên đã được nhiều hơn bù thấp thô của khối tin. Thu cũng giảm do đến $ 300 triệu về thuế cao hơn, $ 250 triệu của gia tăng chi phí vận hành và $ 200 triệu của tài sản thấp hơn lợi nhuận trên doanh thu. Quý khí đốt tự nhiên đã được sản xuất 10.246 mcfd (triệu cubic feet mỗi ngày), tăng 132 mcfd từ năm 2007. Cao hơn nhu cầu của châu Âu và Bắc biển bổ sung dự án đã được bù đắp một phần của trường dành cho người lớn từ chối. Nước sản xuất tổng số 2.474 kbd (hàng ngàn barrels mỗi ngày), xuống 272 kbd từ quý I năm 2007. Ngoại trừ những Venezuela expropriation, divestments, OPEC hạn ngạch hiệu quả và tác động đến giá cả và chi tiêu về số lượng, nước sản xuất đã được xuống 6 phần trăm. Gia tăng sản xuất từ các dự án ở phía Tây Bắc Châu Phi và Biển đã được bù đắp nhiều hơn dành cho người lớn của trường từ chối, PSC lưới cắt giảm lãi suất và duy trì hoạt động. Hạ thu của $ 1.166 $ 746 triệu đã được triệu thấp hơn quý I năm 2007. Thấp hơn đáng kể trên toàn thế giới cải tiến lề giảm thu nhập khoảng $ 1,0 tỷ đồng, trong khi lọc nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tăng thu nhập khoảng $ 350 triệu. Sản phẩm kinh doanh xăng dầu của 6.821 kbd được 377 kbd thấp hơn năm ngoái đầu tiên của quý, chủ yếu phản ánh tài sản bán hàng. Hóa chất thu được là $ 1.028 triệu đồng đã được $ 208 triệu thấp hơn quý I năm 2007. Hạ lề, mà thu nhập giảm khoảng $ 350 triệu đồng, đã được bù đắp một phần của nước ngoài thuận lợi và trao đổi về thuế hiệu quả. Thủ tướng sản phẩm bán 6.578 trippa (thước đo hàng ngàn tấn) trong quý I năm 2008 đã được 227 trippa thấp hơn năm trước. Công ty tài chính và chi phí là $ 89 triệu, tăng $ 180 triệu, chủ yếu do chi phí cao hơn các doanh nghiệp và thuế bản ghi. Tiền mặt được cung cấp bởi các hoạt động điều hành tổng số $ 21.420 triệu đồng cho ba tháng đầu tiên năm 2008, $ 7.134 triệu cao hơn nhiều so với năm 2007. Các nguồn gốc của các khoản tiền đã được thu nhập của net $ 10.890 triệu đồng, điều chỉnh để cung cấp các noncash $ 3.104 triệu cho khấu hao và depletion, cả hai trong số đó tăng lên. Những tác động của giá cả cao hơn về thời gian của các khoản thanh toán của các tài khoản và các payables và thời gian trả thuế thu nhập thêm vào tiền mặt được cung cấp bởi các hoạt động điều hành.
Tổng số tiền mặt và tiền mặt của equivalents $ 40,9 tỷ đồng vào cuối quý đầu tiên năm 2008 so với $ 34,6 tỷ đồng, trong đó có $ 4,6 tỷ đồng tiền mặt bị giới hạn, vào cuối quý đầu tiên năm 2007. Quy divestments tài sản là $ 413 triệu trong năm 2008 đã thấp hơn. Dòng tiền mặt từ các hoạt động bán hàng và tài sản trong ba tháng đầu tiên năm 2008 là $ 21,8 tỷ đồng, bao gồm cả tài sản doanh thu của $ 0,4 tỷ đồng, và tăng lên $ 7,0 tỷ đồng từ các khoảng thời gian tương 2007. Net tiền mặt được sử dụng trong các hoạt động tài chính 11.353 triệu $ trong ba tháng đầu tiên năm 2008 tăng lên $ 1.848 triệu đồng phản ánh một mức độ cao hơn mua cổ phần của cổ phiếu ExxonMobil. Những mua hàng bao gồm $ 8,0 tỷ đồng để giảm bớt số