Tại mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ, hệ thống thuế luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Thuế vừa là nguồn thu ngân sách, vừa là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các quốc gia luôn luôn hướng tới việc xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ và luôn theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Trong nhiều năm qua, chính sách và cơ chế quản lý thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và mang lại những kết quả đáng khích lệ cả về yêu cầu thu ngân sách Nhà nước (NSNN) cũng như quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế đối ngoại; góp phần quan trọng làm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới “ Thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế trong khu vực ASEAN nói riêng, đặc biệt là khi tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA và tương lai là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, chính sách thuế nhập khẩu ở nước ta đã bộc lộ nhiều tồn tại, gây thất thu lớn cho NSNN và hạn chế kết quả của tiến trình hội nhập.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ” trong bối cảnh hiện nay để nghiên cứu là việc làm cần thiết.
Nội dung nghiên cứu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Thuế nhập khẩu với hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam.
Chương III: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
81 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3160 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tại mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ, hệ thống thuế luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Thuế vừa là nguồn thu ngân sách, vừa là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các quốc gia luôn luôn hướng tới việc xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ và luôn theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Trong nhiều năm qua, chính sách và cơ chế quản lý thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và mang lại những kết quả đáng khích lệ cả về yêu cầu thu ngân sách Nhà nước (NSNN) cũng như quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế đối ngoại; góp phần quan trọng làm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới “ Thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế trong khu vực ASEAN nói riêng, đặc biệt là khi tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA và tương lai là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, chính sách thuế nhập khẩu ở nước ta đã bộc lộ nhiều tồn tại, gây thất thu lớn cho NSNN và hạn chế kết quả của tiến trình hội nhập.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ” trong bối cảnh hiện nay để nghiên cứu là việc làm cần thiết.
Nội dung nghiên cứu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Thuế nhập khẩu với hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu ở Việt Nam.
Chương III: Hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG I
THUẾ NHẬP KHẨU VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.Tổng quan về thuế nhập khẩu.
Bản chất của thuế nhập khẩu.
a. Khái niệm.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là đòi hỏi cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu ( chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề phúc lợi công cộng.v.v...), Nhà nước sử dụng ba hình thức động viên là: quyên góp của dân, vay dân và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp và vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định lâu dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong những trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính Nhà nước. Hình thức này gọi là Thuế.
Từ những nội dung trên, chúng ta có thể nêu một khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là khoản đóng góp bắt buộc do Nhà nước quy định đối với các tổ chức và các nhân trong xã hội nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.
Thuế nhập khẩu là một phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động nhập khẩu mà các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động nhập khẩu có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật thuế nhập khẩu , nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cũng như các chính sách của Nhà nước.
Nói cách khác, thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc gia hoặc từ khu chế xuất xuất vào thị trường thuộc lãnh thổ của quốc gia đó.
b. Bản chất.
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu, đánh vào hàng hóa nhập khẩu, làm tăng chi phí của việc đưa hàng hoá đến một quốc gia. Người tiêu dùng hàng hoá phải gánh chịu loại thuế này.
Nghiên cứu bản chất của thuế nhập khẩu, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu là phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động nhập khẩu.
Thứ hai, việc xây dựng thuế suất thuế nhập khẩu phải đảm bảo giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu.
Thứ ba, thuế suất thuế nhập khẩu được xây dựng ở mức thấp nhưng hợp lý.
Thứ tư, chính sách thuế nhập khẩu của Nhà nước phải đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả.
Những đặc điểm của thuế nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu là một loại thuế nên cũng mang các đặc điểm của thuế nói chung:
Thứ nhất, mang tính quyền lực Nhà nước.
Đặc điểm này được thể chế hóa trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và của mỗi công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế và công dân. Tổ chức và cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, tức là họ đã vi phạm pháp luật của quốc gia đó.
Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính tự nguyện cho NSNN và thuế với các khoản vay mượn của Chính phủ.
Thứ hai, thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp.
Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho các nhu cầu của Nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi các nhân, người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước. Số tiền thuế mà các đối tượng phải nộp cho Nhà nước được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ.
Đặc điểm này giúp phân biệt thuế với phí và lệ phí.
Thứ ba, chứa đựng các yếu tố kinh tế - xã hội.
Tuy thuế được coi là biện pháp tài chính mang tính chất bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới. Nó thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước về việc muốn khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của bất cứ ngành nào hoặc lĩnh vực nào trong toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, thuế còn là công cụ để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn có các đặc điểm riêng của nó. Cụ thể là:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá nhập khẩu ở khâu nhập khẩu và hàng hoá từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước, không thu vào hàng hoá sản xuất hoặc lưu thông khác ở trong nước ( khác với thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cũng là một loại thuế gián thu nhưng thu cả vào hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá sản xuất hoặc lưu thông trong nước ).
Mọi hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam, hàng hoá từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Ngoài những đối tượng nêu trên, số còn lại sẽ không chịu sự tác động của loại thuế này.
Thứ hai, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà đối tượng nộp thuế có thể chuyển dịch số thuế mình đã nộp cho Nhà nước sang cho một đối tượng khác. Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu phải gánh chịu loại thuế này. Người nộp thuế nhập khẩu nếu không đồng thời là người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu thì không phải gánh chịu mà chỉ nộp thuế thay cho người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu đó.
Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu đã chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người tiêu dùng chịu. Nói cách khác, người nộp thuế và người chịu thuế không đồng thời là một. Người nộp thuế là người kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó. Nhà kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu đứng ra thu hộ thế cho Nhà nước và nộp hộ người tiêu dùng số thuế thu được vào NSNN.
Thứ ba, là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào các hoạt động kinh tế - xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính. Thay vào đó, Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, tức là Nhà nước chỉ đưa ra các chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên một diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động xã hội đi theo nhằm đật được các mục tiêu đề ra, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp.
Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng… Trong đó, thuế được coi là một trong những công cụ sắc bén nhất. Bằng việc ban hành hệ thống Luật thuế, Nhà nước sẽ quy định việc đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thuế suất thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể thuộc lĩnh vực nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế; thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, nhằm góp phần điều tiết vĩ mô.
Thứ tư, thuế nhập khẩu chỉ do cơ quan Hải quan thu, cơ quan thuế các cấp không thu ( thuế GTGT, thuế TTĐB vừa do cơ quan hải quan thu vừa do cơ quan thuế thu; thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập các nhân, thuế môn bài… chỉ do cơ quan thuế các cấp thu ), nhằm gắn công tác quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động nhập khẩu.
Vai trò của thuế nhập khẩu.
Thứ nhất, thuế nhập khẩu đóng vai trò là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ra đời, dựa vào quyền lực chính trị của mình, Nhà nước đã đặt ra các thứ thuế để bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một phần thu nhập của họ cho Nhà nước. Nhờ có khoản đóng góp đó, bộ máy Nhà nước mới tồn tại và hoạt động được.
Lịch sử phát triển của ngành thuế qua các thời kỳ đã cho thấy: Tỷ trọng thu bằng thuế chiếm phần lớn trong tổng thu NSNN, tỷ trọng này thường chiếm tới trên 90% tổng số thu, trong đó, thuế nhập khẩu đóng vai trò là một nguồn thu quan trọng.
Vai trò truyền thống của thuế quan là động viên một phần thu nhập cho NSNN từ hoạt động ngoại thương. Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế đối ngoại và quan điểm sử dụng thuế quan của mỗi nước mà thuế quan có vai trò khác nhau trong việc tạo lập nguồn thu cho NSNN.
Đối với các nước phát triển, số thu từ thuế nhập khẩu chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong tổng thu NSNN ( 1%-5% ). Còn ở các nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại nguồn thu cho NSNN. Đối với Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất, nhập khẩu chiếm khoảng 19%-20% tổng số thu về thuế và phí của Nhà nước; số thu này có xu hướng giảm dần do việc Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế kể từ năm 1999.
Thứ hai, là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
Để quản lý hoạt động ngoại thương, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong đó có thuế nhập khẩu. Đây được coi là một trong những công cụ hữu hiệu nhất. Thông qua thuế nhập khẩu, Nhà nước có thể tác động một cách trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu của quốc gia bằng cách thay đổi mức thuế suất đối với từng mặt hàng, từ đó có thể điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của mình trong từng giai đoạn phát triển. Nhà nước sử dụng thuế nhập khẩu để điều tiết hoạt động nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại quốc tế, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước, thực hiện chiến lược phát triển kinh đối ngoại.
Thứ ba, thuế nhập khẩu giữ vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội thế giới đã chứng minh rằng: cho đến nay, không một quốc gia nào là không sử dụng công cụ thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước, giữa các nước chỉ khác nhau về mức độ bảo hộ mà thôi. Ở các nước phát triển, người ta hạ thấp hoặc xoá bỏ hàng rào thuế nhập khẩu; còn ở các nước đang phát triển thì hoàn toàn ngượcc lại, thuế nhập khẩu lại được sử dụng như một hàng rào đắc lực nhất che chắn cho sản xuất trong nước phát triển, chống lại sự cạnh tranh và thâm nhập của hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài tràn vào.
Thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá nhập khẩu. Vì vậy, việc quy định thuế suất thuế nhập khẩu cao hay thấp có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. Đồ thị dưới đây sẽ minh hoạ rõ hơn cho những tác động ấy:
Giả sử một quốc gia A nào đó đứng trước một mức giá quốc tế Pw của sản phẩm X, theo đó quốc gia A có thể mua bao nhiêu sản phẩm X từ nước ngoài. Các đường D, S biểu thị mức cầu của người tiêu dùng quốc gia A về sản phẩm X và mức cung sản phẩm X của các nhà sản xuất ở quốc gia A. Ta giả thiết rằng, sản phẩm X nội địa và sản phẩm X nước ngoài hoàn toàn có thể thay thế cho nhau, người tiêu dùng chắc chắn sẽ mua loại nào có giá bán rẻ hơn.
Tại mức giá Pw, người tiêu dùng quốc gia A sẽ mua Qd sản phẩm X ( họ muốn ở điểm G trên đường cầu D ), trong khi các doanh nghiệp nội địa chỉ sản xuất Qs sản phẩm X ( họ muốn tại điểm C trên đường cung S ). Do vậy, sẽ có sự chênh lệch giữa mức cung trong nước Qs và mức cầu trong nước Qd, mức chênh lệch này được bù đắp thông qua nhập khẩu hàng hoá.
Bây giờ, chính phủ quốc gia A đánh thuế Nhập khẩu đối với sản phẩm X là t%. Sau khi có thuế, giá sản phẩm X sẽ là Pt : Pt = Pw ( 1+ t% ) cao hơn Pw.
Như vậy, ảnh hưởng của thuế nhập khẩu là nâng giá hàng hoá nước ngoài nhập khẩu cao hơn mức giá quốc tế.
Giá ( Px )
D S
Pt E F
Pw C G
Qs Qs’ Qd’ Qd Sản lượng
( Qx )
Đồ thị 1
Bằng cách nâng giá nội địa, thuế nhập khẩu đã khuyến khích ngành sản xuất sản phẩm X trong nước. Các doanh nghiệp tăng mức sản xuất từ Qs lên Qs’. Thuế nhập khẩu đã bảo hộ cho người sản xuất nội địa bằng cách nâng giá nội địa lên mức mà tại đó hàng nhập khẩu trở nên kém cạnh tranh hơn. Khi chuyển dịch trên đường cung từ điểm C đến điểm E, những người sản xuất trong nước sẽ cảm thấy dễ thở hơn vì giá hàng nhập khẩu vào trong nước đã bị nâng lên do có thuế nhập khẩu.
Về phía cầu, việc tăng giá cả làm người tiêu dùng chuyển tiêu dùng của họ trên đường cầu từ điểm G đến điểm F. Lượng cầu đối với sản phẩm X giảm từ Qd xuống Qd’. Người tiêu dùng phải trả nhiều tiền hơn để mua sản phẩm X.
Đồ thị trên cho thấy ảnh hưởng kết hợp của việc tăng cường sản xuất nội địa, đó là giảm nhập khẩu. Việc nhập khẩu giảm vừa do sản xuất nội địa tăng, vừa do tiêu dùng nội địa giảm. Với bất kỳ mức thuế nhập khẩu cho trước, mức độ giảm nhập khẩu phụ thuộc vào hệ số góc của đường cung và đường cầu nội địa. Các đường này càng co giãn thì một mức tăng nhất định của giá nội địa đã có thuế nhập khẩu sẽ càng làm giảm mức nhập khẩu. Trái lại, khi cả 2 đường đều rất dốc thì mức tăng do thuế trong giá nội địa sẽ có ảnh hưởng nhỏ tới lượng cung và lượng cầu, do đó ảnh hưởng ít đến số lượng nhập khẩu.
Bên cạnh việc sử dụng thuế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước, các nước còn sử dụng thuế nhập khẩu để khuyến khích xuất khẩu thông qua việc không thu thuế hoặc áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu; hạ thấp, không thu thuế, hoàn thuế thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu dùng để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, bằng việc thay đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu, Nhà nước cũng có thể áp đặt ý muốn chủ quan của mình về việc muốn khuyến khích phát triển ngành nào hoặc hạn chế sự phát triển của ngành nào thông qua việc giảm thuế suất hoặc tăng thuế suất đối với các ngành đó. Việc làm này đã gián tiếp góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự thâm nhập của hàng hoá quốc tế vào Việt Nam.
Thứ tư, khẳng định chủ quyền quốc gia và chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
Hai đặc quyền cơ bản của việc thu thuế đối với mỗi quốc gia là : quyền đối với đối tượng cư trú và quyền đối với thu nhập phát sinh từ quốc gia đó. Một quốc gia có quyền đánh thuế vào hàng hoá được tiêu thụ ở chính quốc gia của mình, hay nói một cách khác là có quyền đánh thuế vào nguồn thu nhập phát sinh tại chính lãnh thổ mình quản lý; nếu từ bỏ quyền này cũng đồng nghĩa với việc tự mình đánh mất đi chủ quyền quốc gia. Mặt khác, trước xu thế toàn cầu hoá thì sự khác nhau về chính sách thuế giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển càng trở nên rõ rệt. Bởi vậy, thuế nhập khẩu sẽ là cầu nối quan trọng giúp cho các quốc gia đang phát triển chống lại sự phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
Thứ năm, thuế nhập khẩu là công cụ thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần giải quyết việc làm và thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia.
Với quan điểm cho rằng thuế nhập khẩu là một công cụ thu hút đầu tư nước ngoài, một số nhà kinh tế học đã cho rằng : bằng cách đánh thuế nhập khẩu ở mức cao, nước đánh thuế đã gửi thông điệp kêu gọi các nhà sản xuất ở các quốc gia khác đến đầu tư sản xuất tại nước mình. Thay vì xuất khẩu hàng hoá, các nhà sản xuất có thể chuyển vốn, thiết bị, công nghệ tới nước đánh thuế nhập khẩu cao để sản xuất hàng hoá tại đó. Việc làm này đã làm tăng đầu tư nước ngoài vào quốc gia thực hiện việc đánh thuế.
Cùng với việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho người lao động, người tiêu dùng của nước đánh thuế nhập khẩu còn được mua hàng có giá trị tương đương hàng nhập khẩu nhưng giá rẻ hơn hàng nhập khẩu cùng loại sản xuất ở chính quốc.
1.2. Nội dung của chính sách thuế nhập khẩu.
Chính sách thuế nhập khẩu nói chung ở tất cả các quốc gia trên thế giới thường bao gồm các nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng.
a. Đối tượng chịu thuế.
Hàng hoá được phép nhập khẩu quy định tại Điều 1 Nghị định số 54/CP ngày 28/08/1993 của Chính phủ đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu; trừ những trường hợp sau:
* Hàng quá cảnh và mượn đường qua lãnh thổ Việt Nam.
* Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu.
* Hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan; Hàng hoá từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hoá đưa từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan này sang khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan khác trong lãnh thổ Việt Nam; Hàng hoá nhập khẩu vào các khu vực được phép miễn thuế theo quy định của Chính phủ.
* Hàng viện trợ nhân đạo.
Trừ một số loại hàng hoá cấm nhập khẩu vào Việt Nam do ảnh hưởng tới an ninh trật tự và đời sống xã hội, số còn lại đều có thể nhập khẩu.
b. Đối tượng nộp thuế.
Mọi tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu đều là đối tượng nộp thuế nhập khẩu.
* Cá nhân là đối tượng nộp thuế nhập khẩu khi cá nhân, hộ kinh doanh cá thể trực tiếp đứng ra nhập khẩu hàng hoá hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá.
* Tổ chức được coi là đối tượng nộp thuế nhập khẩu khi tổ chức, đơn vị đó có tư cách pháp nhân, trực tiếp đứng ra nhập khẩu và nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá hoặc được thuê làm dịch vụ kê khai, nộp thuế nhập khẩu.
1.2.2. Căn cứ tính thuế nhập khẩu.
Căn cứ tính thuế nhập khẩu là số lượng hàng hoá, giá tính thuế và thuế suất của mặt hàng nhập khẩu.
a. Số lượng hàng hoá nhập khẩu.
Số lượng hàng hoá nhập khẩu làm căn cứ tính thuế là số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu.
b. Giá tính thuế, tỷ giá tính thuế, đồng tiền nộp thuế.
Có hai phương pháp xác định giá tính thuế đó là:
Thứ nhất, phương pháp xác định giá tính thuế nhập khẩu bằng giá tối thiểu.
Theo quy định hiện hành, hàng hoá nhập khẩu chịu thuế nhập khẩu tính trên giá tính thuế tối thiểu nếu giá của mặt hàng đó ghi trong hợp đồng thấp hơn giá tham chiếu trong bảng giá tính thuế tối thiểu. Tuy nhiên, hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành còn mang nặng tính áp đặt chủ q