Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta, trong những năm gần đây nhu cầu về vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng gia tăng đã kéo theo sự gia tăng đáng kể về số lượng các phương tiện vận tải. Tuy nhiên, do điều kiện về cơ sở hạ tầng giao thông nước ta còn nhiều bất cập, trong khi đó ý thức chấp hành luật kệ an toàn giao thông của người dân chưa cao đã dẫn đến phát sinh nhiều hệ lụy, đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông đã trở thành vấn nạn của xã hội. Mặc dù chính phủ, các cấp, các ngành đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhưng tình trạng tai nạn giao thông không những không được kiềm chế mà còn diễn biến hết sức phức tạp. Hàng năm có đến hàng vạn người chết và bị thương, thiệt hại về vật chất là vô cùng to lớn và trở thành nỗi ám ảnh của mọi người, nhất là đối với chủ nhân có các phương tiện tham gia giao thông.
Trước thực trạng đó, nhu cầu về bảo hiểm xe cơ giới ngày càng được các chủ xe quan tâm và xem đây là một trong những biện pháp tích cực để khắc phục những hậu quả khôn lường do tai nạn giao thông gây ra, qua đó giúp họ ổn định về mặt tài chính và an tâm hơn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình khi đã chuyển giao rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong số những nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai, bảo hiểm kết hợp xe cơ giới (chủ yếu là bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới với người thứ ba) là một nghiệp vụ chủ yếu. Ở Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), nghiệp vụ này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng doanh thu. Tuy nhiên, công tác giám định và bồi thường nghiệp vụ này ở PJICO vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Với mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả, PJICO không thể không chú trọng đến công tác nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng vì chỉ có giải quyết tốt nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp mới có đủ uy tín để tồn tại trong một môi trường cạnh tranh đầy năng động như ngày nay.
Thời gian qua em cũng đã có cơ hội được thực tập tại công ty PJICO. Quá trình thực tập tuy có ngắn ngủi nhưng em cũng hiểu thêm được rất nhiều điều, được trực tiếp làm việc và đi sâu vào thực tế hơn. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề này bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Chương 2: Thực trạng công tác giám định, bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác giám định-bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO
84 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2545 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta, trong những năm gần đây nhu cầu về vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng gia tăng đã kéo theo sự gia tăng đáng kể về số lượng các phương tiện vận tải. Tuy nhiên, do điều kiện về cơ sở hạ tầng giao thông nước ta còn nhiều bất cập, trong khi đó ý thức chấp hành luật kệ an toàn giao thông của người dân chưa cao đã dẫn đến phát sinh nhiều hệ lụy, đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông đã trở thành vấn nạn của xã hội. Mặc dù chính phủ, các cấp, các ngành đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhưng tình trạng tai nạn giao thông không những không được kiềm chế mà còn diễn biến hết sức phức tạp. Hàng năm có đến hàng vạn người chết và bị thương, thiệt hại về vật chất là vô cùng to lớn và trở thành nỗi ám ảnh của mọi người, nhất là đối với chủ nhân có các phương tiện tham gia giao thông.
Trước thực trạng đó, nhu cầu về bảo hiểm xe cơ giới ngày càng được các chủ xe quan tâm và xem đây là một trong những biện pháp tích cực để khắc phục những hậu quả khôn lường do tai nạn giao thông gây ra, qua đó giúp họ ổn định về mặt tài chính và an tâm hơn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình khi đã chuyển giao rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong số những nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai, bảo hiểm kết hợp xe cơ giới (chủ yếu là bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới với người thứ ba) là một nghiệp vụ chủ yếu. Ở Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), nghiệp vụ này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng doanh thu. Tuy nhiên, công tác giám định và bồi thường nghiệp vụ này ở PJICO vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Với mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả, PJICO không thể không chú trọng đến công tác nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng vì chỉ có giải quyết tốt nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp mới có đủ uy tín để tồn tại trong một môi trường cạnh tranh đầy năng động như ngày nay.
Thời gian qua em cũng đã có cơ hội được thực tập tại công ty PJICO. Quá trình thực tập tuy có ngắn ngủi nhưng em cũng hiểu thêm được rất nhiều điều, được trực tiếp làm việc và đi sâu vào thực tế hơn. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác giám định và bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề này bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Chương 2: Thực trạng công tác giám định, bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác giám định-bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO.
Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên trong bài viết Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM
VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI.
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất kinh doanh, con người luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã giúp con người kiểm soát, hạn chế được phần nào một số rủi ro. Song, chính bàn tay con người lại gây ra nhiều loại rủi ro khác và không ít rủi ro trong xã hội hiện đại đang đe doạ cuộc sống loài người với mức độ nguy hiểm khôn lường. Để bù đắp những thiệt hại, tổn thất có thể gặp phải, từ trước đến nay, loài người đã có nhiều biện pháp, và bảo hiểm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Có nhiều định nghĩa về bảo hiểm, nhưng ở một tầm nhìn khái quát, bảo hiểm thường được hiểu là phương sách xử lý rủi ro, nhờ đó việc chuyển giao và phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm.
Trong nền kinh tế, giao thông vận tải luôn là ngành kinh tế kỹ thuật có vị trí then chốt, là huyết mạch và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành khác. Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn thì nhu cầu đi lại cũng tăng lên một cách nhanh chóng. Hình thức vận chuyển đa dạng bằng đường thuỷ, đường sắt, đường bộ, đường hàng không. Số lượng và chất lượng phương tiện vận chuyển ngày càng tăng. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới, giao thông đường bộ phổ biến hơn cả. Bởi vì, xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ có đặc điểm linh hoạt và được sử dụng trên mọi địa hình khác nhau, rất thuận tiện cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá. Do vậy, chính phủ các nước đều luôn quan tâm đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa ngày càng gia tăng.
Tuy nhiên, XCG được vận hành bằng một lực do động cơ tạo ra nên được coi là một nguồn nguy hiểm cao độ. Do vậy, rủi ro tai nạn giao thông đường bộ rất dễ xảy ra. Sự phát triển của xe cơ giới luôn gắn với sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu hạ tầng giao thông chưa phát triển mà số lượng phương tiện giao thông lại tăng lên quá nhanh thì sự không đồng bộ này sẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho tai nạn giao thông nhiều thêm. Ở Việt Nam hiện nay, số lượng phương tiện giao thông đường bộ trong 10 năm qua tăng lên khá nhanh.
Bảng 1.1: Số xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam (1997-2007)
Năm
Ô tô
So sánh với năm trước
Mô tô
So sánh với năm trước
Tổng số
Tăng (giảm) tuyệt đối
Tăng (giảm) tương đối
(%)
Tăng (giảm) tuyệt đối
Tăng (giảm) tương đối
(%)
1997
418 768
31 789
8,20
4 827 219
618 945
14,70
5 245 987
1998
443 000
24 232
5,80
5 200 000
372 781
7,70
5 643 000
1999
465 000
22 000
5,00
5 585 000
385 000
7,40
6 050 000
2000
483 917
18 917
4,10
6 210 823
625 823
11,20
6 694 740
2001
557 092
73 175
15,10
8 359 042
2 148 219
34,60
8 916 134
2002
607 401
50 309
9,00
10 273 000
1 913 958
22,90
10 880 401
2003
675 000
67 599
11,10
11 379 000
1 106 000
10,80
12 054 000
2004
774 824
99 824
14,80
13 375 992
1 996 992
17,50
14 150 816
2005
891 104
116 280
15,00
16 086 644
2 710 652
20,30
16 977 748
2006
1026 512
135 408
15,20
18 901 206
2 814 562
17,50
19 927 718
2007
1183 260
156 748
15,27
22 350 676
3 449 470
18,25
23 533 936
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông)
Nếu năm 1997, cả nước chỉ có khoảng 418 768 xe ô tô thì đến năm 2007 đã có 1 183 260 xe (tăng 2,8 lần). Trong khi đó, số lượng xe máy tăng tới 4,6 lần, tăng lên nhiều hơn so với mức tăng của phương tiện ô tô tham gia giao thông. Trong khi đó tốc độ phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay không đáp ứng được nhu cầu tham gia giao thông. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho số vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam khá cao. Bên cạnh đó, ý thức cũng như sự hiểu biết và tôn trọng luật an toàn giao thông của một số chủ phương tiện (phóng nhanh, vượt ẩu, chở quá tải …..) làm cho rủi ro tai nạn giao thông ngày càng tăng. Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên nhân của tình trạng gia tăng tai nạn giao thông ở nước ta là do các phương tiện giao thông đường bộ cũ nát, không đảm bảo chất lượng. Bảng số liệu thống kê dưới đây cho thấy tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở nước ta trong hơn 10 năm qua.
Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam (1997-2007)
Năm
Số vụ
Số người chết
Số người bị thương
Số vụ
So sánh với năm trước
Số người chết
So sánh với năm trước
Số người bị thương
So sánh với năm trước
Tăng(giảm) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm) tương đối
(%)
Tăng(giảm) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm) tương đối
(%)
Tăng(giảm) tuyệt đối
(%)
Tăng(giảm) tương đối
(%)
1997
19159
84
0.44
5680
99
1.77
21905
349
1.62
1998
19975
816
4.26
6067
387
6.81
22723
818
3.73
1999
20733
758
3.79
6670
603
9.94
23911
1188
5.23
2000
22486
1753
8.46
7500
830
12.44
25400
1489
6.23
2001
25040
2554
11.36
10477
2977
39.69
29188
3788
14.91
2002
27134
2094
8.36
12800
2323
22.17
30733
1545
5.29
2003
19852
-7282
-26.84
11319
-1481
-11.57
20400
-10333
-33.62
2004
16911
-2941
-14.81
11739
420
3.71
15142
-5258
-25.77
2005
14141
-2770
-16.38
11184
-555
-4.73
11760
-3382
-22.34
2006
14668
527
3.73
12600
1416
12.66
11253
-507
-4.31
2007
14624
-44
-0.3
13150
550
4.37
10546
-707
-6.28
(Nguồn: Báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông )
Theo số liệu đưa ra ở bảng trên, mặc dù từ 2002 đến nay, số vụ TNGT ở nước ta có xu hướng giảm đi, song xét trong cả thời kỳ 1997–2007, số vụ TNGT đã giảm đi, số người chết lại tăng lên 6,3 lần và số người bị thương tăng lên 2,4 lần. Như vậy, số vụ tai nạn nghiêm trọng lại có chiều hướng gia tăng.
Khi tai nạn giao thông xảy ra, các chủ xe không những thiệt hại về người, về mặt tinh thần mà còn thiệt hại cả về vật chất. Thực tế này đã tạo ra cả sức ép tài chính lẫn tinh thần đối với các chủ phương tiện giao thông đường bộ. Chính vì vậy, bảo hiểm xe cơ giới đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam nhằm đáp ứng cho nhu cầu được bảo vệ của chủ xe khi có rủi ro tai nạn giao thông xảy ra.
Bảo hiểm xe cơ giới là tập hợp các nghiệp vụ bảo hiểm gắn với các rủi ro tai nạn giao thông đường bộ, bao gồm: bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm TNDS chủ xe đối với người thứ ba và hành khách, bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hoá trên xe, bảo hiểm tai nạn người ngồi và lái, phụ xe,… Trong số đó, bảo hiểm vật chất xe cùng với bảo hiểm TNDS chủ xe đối với người thứ ba là hai nghiệp vụ chủ yếu hay được triển khai nhất. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này em xin được tập trung chủ yếu vào phần nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2.1 Góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi gặp rủi ro tai nạn giao thông
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những chuyển biến to lớn cả về chất và về lượng, Nhà nước không ngừng khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư vào đầu tư kinh doanh để sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức mạnh, vị thế. Chính vì vậy mà trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ thì quả là lãng phí. Đặc biệt đối với doanh nghiệp đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó xác định. Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít’’. Lúc này thay vì phải lập một quỹ riêng cho doanh nghiệp, chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên khác cùng đóng góp.
Khi tham gia bảo hiểm, không ai muốn rủi ro xảy ra để được bảo hiểm. Tuy nhiên, rủi ro không loại trừ bất kỳ ai và có thể xảy ra bất cứ khi nào. Hậu quả là có thể gây thiệt hại cả về người và của cho chủ phương tiện và người thứ ba. Khi xảy ra tai nạn, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường trong hạn mức mà hai bên đã thỏa thuận. Số tiền bồi thường của công ty cho chủ phương tiện giúp họ ổn định tình hình tài chính, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Có thể nói, bảo hiểm xe cơ giới đã góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm, thoải mái cho các chủ xe, lái xe khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông.
2.2 Góp phần ngăn ngừa và đề phòng hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông gây ra.
Số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm sẽ hình thành nên một quỹ rất lớn, quỹ này ngoài việc sử dụng bồi thường cho chủ xe cơ giới khi rủi ro xảy ra, còn sử dụng để đề phòng hạn chế tổn thất như hỗ trợ đầu tư xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, làm thêm các biển báo chỉ đường, v.v… góp một phần không nhỏ làm giảm thiểu nguy cơ gây tai nạn.
Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, các DNBH còn có các chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích các chủ xe nâng cao ý thức đề phòng hạn chế rủi ro và tổn thất thông qua việc thực hiện tuyên truyền luật an toàn giao thông, phổ biến, nâng cao ý thức của mọi tầng lớp dân cư.
2.3 Góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và tạo thêm việc làm cho người lao động.
Đời sống của con người ngày càng được nâng cao, số lượng xe cơ giới cũng ngày một tăng. Hơn nữa khi điều kiện sống đầy đủ, trình độ nhận thức cao hơn thì nhu cầu bảo vệ cho bản thân, gia đình, tài sản lại càng được nâng lên, DNBH sẽ ngày càng được mở rộng về quy mô, thu hút một lực lượng lao động không nhỏ tham gia, góp phần tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho lao động. Mặt khác, hoạt động bảo hiểm xe cơ giới là loại hình bảo hiểm thương mại, vì vậy công ty bảo hiểm còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các hình thức nộp thuế, tức tăng thu cho ngân sách. Ngược lại, chính phủ có thể sử dụng ngân sách phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, mở rộng quy mô hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
3. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
3.1 Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, và nó được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại về vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro gây nên thuộc phạm vi bảo hiểm. Vì vậy, đối tượng BH VCX cơ giới chính là bản thân chiếc xe với đầy đủ các yếu tố như xe cơ giới phải có giá trị sử dụng; xe phải được phép lưu hành theo quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật và an toàn giao thông; và xe phải có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh.
Ví dụ: Với xe ô tô thì cơ cấu xe thường bao gồm:
Tổng thành thân vỏ: 53,5%
Tổng thành động cơ: 15,5%
Tổng thành hộp số: 7,0%
Tổng thành cầu trước:
Tổng thành trục sau:
Tổng thành hệ thống lái:
Tổng thành săm, lốp:
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối với xe mô tô, xe máy do chúng có giá trị thấp nên thường thì chủ xe ít tham gia bảo hiểm vật chất XCG cho loại xe này. Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ xe hoặc cũng có thể tham gia bảo hiểm theo từng bộ phận của xe.
Xét về kỹ thuật xe cơ giới, người ta chia một ô tô thành 7 tổng thành cơ bản:
- Tổng thành thân vỏ bao gồm: cabin toàn bộ, calang, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kinh, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn đạp ga, cần số, phanh chân, phanh tay...
- Tổng thành hệ thống lái bao gồm : Vô lăng lái, trục tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi de.
- Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ (nếu có).
- Tổng thành động cơ.
- Tổng thành trục trước (cần trước) bao gồm: dầm cầu trục lắp hệ thống treo nhíp, may ơ nhíp, cơ cấu phanh, nếu là cần chủ động thì có thêm một cần vi sai với vỏ cần.
- Tổng thành trục sau bao gồm: vỏ cầu toàn bộ, một cầu, vi sai, cụm may ơ sau, cơ cấu phanh, xi lanh phanh, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp...
- Tổng thành bánh xe: lốp săm (kể cả săm lốp dự phòng).
Ngoài ra, đối với các xe chuyên dụng như xe cứu thương, xe cứu hoả, xe chở container... thì có thêm tổng thành chuyên dụng.
Trong tất cả các tổng thành trên, tổng thành thân vỏ thường là phần dễ bị tổn thất nhất khi rủi ro tai nạn giao thông xảy ra. Do đó, đây cũng chính là phần tổng thành được các chủ xe lựa chọn tham gia bảo hiểm nhất. Hiện nay, ở nước ta có trên 60% khách hàng mua bảo hiểm cho tổng thành này.
3.2. Phạm vi bảo hiểm
a. Rủi ro được bảo hiểm
* Nhà bảo hiểm thường quy định bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra do tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe trong những trường hợp sau đây:
Tai nạn do đâm, va, lật, đổ.
Hỏa hoạn, cháy, nổ
Những tổn thất do thiên nhiên như: bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá, sụt lở…
Mất cắp toàn bộ xe (đối với xe mô tô chỉ bảo hiểm khi có thỏa thuận riêng).
Tai nạn, rủi ro bất ngờ khác gây nên (Ngoài những điểm loại trừ quy định tại mục b dưới đây)
Ngoài ra DNBH còn thanh toán những chí phí cần thiết và hợp lý nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các nguyên nhân trên.
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
- Chi phí giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của DNBH không vượt quá số tiền bảo hiểm được ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
b. Rủi ro loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
* Những điểm loại trừ chung:
DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
- Hành động cố ý gây thiệt hại của Chủ xe, lái xe hoặc của người bị thiệt hại.
Xe không có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, hoặc có nhưng không hợp lệ (Trừ khi có những thỏa thuận khác).
Lái xe không có giấy phép lái xe (Đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe) hoặc có nhưng không hợp lệ.
Tai nạn xảy ra do Lái xe có nồng độ cồn, rượu, bia vượt quá quy định của pháp luật hiện hành, khi có kết luận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc có chất ma túy và các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng.
Vận chuyển hàng trái phép hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển, xếp dỡ hàng theo quy định của pháp luật.
Xe sử dụng để đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa (trừ khi có thỏa thuận khác).
Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm, vượt đèn đỏ hoặc không chấp hành theo hiệu lệnh của người điều khiển giao thông, xe đi đêm không có đèn chiếu sáng theo quy định.
Thiệt hại mang tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại; những thiệt hại mang yếu tố tinh thần; thiệt hại không do tai nạn trực tiếp gây ra.
Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng bạc, đá quý, tiền, các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt, chất phóng xạ (trừ khi có thỏa thuận khác).
Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (trừ khi có thỏa thuận khác);
Khủng bố, chiến tranh và các nguyên nhân tương tự như chiến tranh như: nội chiến, bạo động, đình công…
Ngoài những điểm loại trừ chung trên, DNBH không phải trả tiền bồi thường thiệt hại về vật chất xe trong những trường hợp sau:
Hao mòn, hư hỏng tự nhiên phát sinh từ việc hoạt động bình thường của chiếc xe gây ra
Hư hỏng do khuyết tật, mất giá trị, giảm dần chất lượng cho dù có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
Hư hỏng hoặc tổn thất thêm do sửa chữa.
Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị mà không phải do tai nạn quy định tại mục b1 trên.
Tổn thất đối với xăm lốp, đề can, chụp đầu trục bánh xe, chắn bùn, chữ nhãn hiệu, biểu tượng nhà sản xuất trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng một nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một vụ tai nạn.
Mất cắp bộ phận của xe (trừ khi có thỏa thuận khác).
Các thiết bị lắp thêm trên xe ngoài các thiết bị mà nhà sản xuất đã lắp ráp (không tính các thiết bị mang tính chất bảo vệ cho xe như hệ thống báo động, cản tr