Ngân sách nhà nước (NSNN) là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn tài chính được huy động cho Nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước do Hiến pháp qui định.
Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia. NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng qui mô đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Qui mô và cơ cấu thu chi NSNN tác động mạnh mẽ đến quan hệ cung cầu trên thị trường và thông qua đó tác động đến nền kinh tế. Thông qua việc phân bổ NSNN, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát triển bền vững và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội (KTXH). NSNN là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện việc quản lý, kiểm soát nền kinh tế. NSNN trực tiếp đầu tư phát triển (ĐTPT) nguồn nhân lực, trí lực (giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, khoa học.) thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội.
Điều đó cho thấy việc phân bổ sử dụng có hiệu quả vốn NSNN của quốc gia nói chung và của các địa phương nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt các mục tiêu tăng trưởng KTXH của mình.
Luật NSNN (2002) trao thêm quyền tự chủ về ngân sách (NS) cho các địa phương. Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp quản lý NSNN cho chính quyền các cấp; xây dựng định mức phân bổ ngân sách (ĐMPBNS) và mức phân bổ NS cho các ngành, các cấp. Các ĐMPBNS cho NS cấp huyện, xã được xây dựng và áp dụng cho mỗi giai đoạn ổn định NS (3-5 năm). Việc xây dựng đầy đủ các ĐMPBNS ở tất cả các lĩnh vực là việc làm hoàn toàn mới.
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc nào đề cập đến phương pháp phân bổ NSNN ở địa phương. Chưa có tài liệu nào có thể cung cấp các căn cứ khoa học hoặc cơ sở, phương pháp giúp cho Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh trong việc xây dựng ĐMPBNS. Việc phân bổ NSNN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, cách thức phân bổ của những năm trước (phân bổ NS tăng dần hàng năm) hoặc mô phỏng theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ĐMPBNS chi thường xuyên giữa ngân sách trung ương (NSTW) với ngân sách địa phương (NSĐP). Thậm chí việc phân bổ còn phụ thuộc nhiều vào ý chủ quan của người quản lý, chưa hình thành căn cứ, tiêu chí, phương pháp phân bổ một cách khoa học nhằm đảm bảo công bằng, minh bạch trong quá trình phân bổ NSNN, gắn chặt với việc triển khai thực hiện kế hoạch KTXH và hiệu quả đầu ra, kết quả.
168 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2007–2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Ngân sách nhà nước (NSNN) là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn tài chính được huy động cho Nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước do Hiến pháp qui định.
Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia. NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng qui mô đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Qui mô và cơ cấu thu chi NSNN tác động mạnh mẽ đến quan hệ cung cầu trên thị trường và thông qua đó tác động đến nền kinh tế. Thông qua việc phân bổ NSNN, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát triển bền vững và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội (KTXH). NSNN là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện việc quản lý, kiểm soát nền kinh tế. NSNN trực tiếp đầu tư phát triển (ĐTPT) nguồn nhân lực, trí lực (giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, khoa học...) thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội.
Điều đó cho thấy việc phân bổ sử dụng có hiệu quả vốn NSNN của quốc gia nói chung và của các địa phương nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt các mục tiêu tăng trưởng KTXH của mình.
Luật NSNN (2002) trao thêm quyền tự chủ về ngân sách (NS) cho các địa phương. Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp quản lý NSNN cho chính quyền các cấp; xây dựng định mức phân bổ ngân sách (ĐMPBNS) và mức phân bổ NS cho các ngành, các cấp. Các ĐMPBNS cho NS cấp huyện, xã được xây dựng và áp dụng cho mỗi giai đoạn ổn định NS (3-5 năm). Việc xây dựng đầy đủ các ĐMPBNS ở tất cả các lĩnh vực là việc làm hoàn toàn mới.
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc nào đề cập đến phương pháp phân bổ NSNN ở địa phương. Chưa có tài liệu nào có thể cung cấp các căn cứ khoa học hoặc cơ sở, phương pháp giúp cho Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh trong việc xây dựng ĐMPBNS. Việc phân bổ NSNN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, cách thức phân bổ của những năm trước (phân bổ NS tăng dần hàng năm) hoặc mô phỏng theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ĐMPBNS chi thường xuyên giữa ngân sách trung ương (NSTW) với ngân sách địa phương (NSĐP). Thậm chí việc phân bổ còn phụ thuộc nhiều vào ý chủ quan của người quản lý, chưa hình thành căn cứ, tiêu chí, phương pháp phân bổ một cách khoa học nhằm đảm bảo công bằng, minh bạch trong quá trình phân bổ NSNN, gắn chặt với việc triển khai thực hiện kế hoạch KTXH và hiệu quả đầu ra, kết quả...
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách nhà nước Tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2007 – 2010” nhằm góp phần thực hiện tốt kế hoạch phát triển KTXH là cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
+ Mục tiêu chung
Trên cơ sở qui trình lập dự toán NSNN, tình hình phân bổ vốn đầu tư, định mức phân bổ chi thường xuyên NSNN hiện hành để đánh giá kết quả phân bổ NSNN phân theo ngành từ năm 2001 đến 2006. Xây dựng căn cứ, tiêu chí, phương pháp phân bổ NSNN cho các cơ quan, đơn vị, các huyện, thành phố đảm bảo công bằng, minh bạch, phát huy hiệu quả sử dụng vốn và góp phần đảm bảo nguồn lực để triển khai thực hiện một cách tốt nhất kế hoạch phát triển KTXH của tỉnh đến năm 2010.
+ Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về NSNN; phân bổ NSNN. Cung cấp cơ sở phương pháp luận về xây dựng ĐMPBNS giúp cho HĐND và UBND các địa phương có cơ sở vận dụng, thiết lập các ĐMPBNS trong phạm vi quản lý của mình.
- Đánh giá thực trạng công tác phân bổ NSNN và những kết quả đạt được, những bất cập, tồn tại trong việc sử dụng NSNN giai đoạn 2001 - 2006.
- Xác định định hướng phân bổ NSNN cho các ngành; xây dựng các căn cứ, tiêu chí, phương pháp phân bổ.
- Thông qua công tác phân bổ NS để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch KTXH gắn kết kế hoạch với NS nhằm triển khai thực hiện.
- Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về các giải pháp nhằm đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn phân bổ NSNN ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình phân bổ, giám sát, quyết định NSNN của HĐND, UBND, cơ quan tài chính các cấp.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn công tác phân bổ NSNN ở Tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là công tác phân bổ NSNN chi cho ĐTPT, chi thường xuyên giai đoạn 2001 - 2006; các giải pháp hoàn thiện công tác phân bổ NSNN tỉnh nhằm thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng của Tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2007 - 2010.
4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng công tác phân bổ ngân sách nhà nước tỉnh giai đoạn 2001 - 2006.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện công tác phân bổ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2007 - 2010.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1 Khái niệm
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước [25].
Về bản chất, NSNN là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác như doanh nghiệp, cơ quan HCSN, hộ gia đình, cá nhân… trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ NS [9].
Ngân sách nhà nước Việt Nam gồm NSTW và NSĐP. Ngân sách địa phương có NS của đơn vị hành chính các cấp có HĐND và UBND. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay, NSĐP bao gồm NS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; NS cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và NS cấp xã, phường, thị trấn.
1.1.2 Nội dung thu, chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1 Thu ngân sách nhà nước
Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu NSNN ở nước ta gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của pháp luật, như tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi); thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của các tổ chức kinh tế có sự tham gia góp vốn của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp; tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước.
- Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị nhà nước.
- Thu từ Quỹ dự trữ tài chính; thu kết dư NS.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, gồm: các khoản di sản nhà nước được hưởng; các khoản phạt, tịch thu; thu hồi dự trữ nhà nước; thu chênh lệch giá, phụ thu; thu bổ sung từ NS cấp trên; thu chuyển nguồn NS từ NS năm trước chuyển sang.
Qua cách phân loại này giúp cho việc xem xét từng nội dung thu theo tính chất và hình thức động viên vào NS, đánh giá tính cân đối, bền vững, hợp lý về cơ cấu của các nguồn thu. Trên cơ sở đó giúp cho việc hoạch định chính sách cũng như tổ chức điều hành NS phù hợp với các mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ [9, 25].
1.1.2.2 Nội dung chi ngân sách nhà nước
1.1.2.2.1 Chi đầu tư phát triển
Căn cứ mục đích của các khoản chi, chi ĐTPT chia thành:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KTXH không có khả năng thu hồi vốn. Các công trình kết cấu hạ tầng KTXH thuộc đối tượng đầu tư bằng vốn ĐTPT của NSNN gồm các công trình giao thông; các công trình đê điều, hồ đập, kênh mương; các công trình bưu chính viễn thông, điện lực, cấp thoát nước; các công trình giáo dục, khoa học công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, công sở của các cơ quan hành chính nhà nước, phúc lợi công cộng...
- Chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Chi dự trữ nhà nước là khoản chi để mua hàng hóa, vật tư dự trữ nhà nước có tính chiến lược của quốc gia hoặc hàng hóa, vật tư dự trữ nhà nước mang tính chất chuyên ngành.
- Chi ĐTPT thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước như chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình 135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, dự án định canh định cư ở các xã nghèo, dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử, cánh mạng và kháng chiến…
- Các khoản chi ĐTPT khác [9, 10, 25].
Đặc điểm chi đầu tư phát triển của NSNN
- Thứ nhất, chi ĐTPT là khoản chi lớn của NSNN nhưng mức chi có thể không có tính ổn định.
Chi ĐTPT là chi cho tích lũy tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất và vật tư hàng hóa dự trữ cần thiết cho nền kinh tế và đó chính là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đồng thời, chi ĐTPT của NSNN còn có ý nghĩa là vốn mồi nhằm hình thành môi trường đầu tư thuận lợi để huy động các nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho ĐTPT các hoạt động KTXH theo định hướng của Nhà nước. Quy mô và tỷ trọng chi NSNN cho ĐTPT trong từng thời kỳ phụ thuộc vào chủ trương, đường lối phát triển KTXH của Nhà nước và khả năng thu của NSNN. Đối với Việt Nam, mặc dù khả năng của NSNN còn hạn chế, song Nhà nước luôn có sự ưu tiên NSNN cho chi ĐTPT. Chi ĐTPT luôn là một khoản chi lớn của NSNN, có xu hướng ngày càng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng chi NSNN.
Tuy nhiên, cơ cấu chi ĐTPT của NSNN cho các ngành KTXH lại không có tính ổn định giữa các thời kỳ phát triển. Thứ tự và tỷ trọng ưu tiên chi ĐTPT của NSNN theo từng nội dung chi, cho từng lĩnh vực thường có sự thay đổi khá lớn giữa các thời kỳ.
- Thứ hai, phạm vi và mức chi ĐTPT của NSNN luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển KTXH của Nhà nước.
Chi NSNN cho ĐTPT nhằm để thực hiện các mục tiêu cụ thể của kế hoạch phát triển KTXH của Nhà nước trong từng thời kỳ. Kế hoạch phát triển KTXH là cơ sở, nền tảng trong việc xây dựng dự toán chi ĐTPT từ vốn NSNN. Kế hoạch phát triển KTXH của Nhà nước quyết định mức và thứ tự ưu tiên chi NSNN cho ĐTPT. Chi ĐTPT gắn liền với kế hoạch phát triển nhằm bảo đảm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện kế hoạch phát triển KTXH và tăng hiệu quả chi ĐTPT.
1.1.2.2.2 Chi thường xuyên
a. Phân loại các khoản chi thường xuyên theo lĩnh vực
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội: hoạt động sự nghiệp văn hóa xã hội thuộc phạm vi chi thường xuyên của NSNN gồm các sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao, thông tấn, báo chí, phát thanh - truyền hình,...
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế: sự nghiệp giao thông, nông nghiệp, thủy lợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp; sự nghiệp khí tượng, thủy văn, đo vẽ bản đồ, định canh, định cư và kinh tế mới…
- Chi cho quản lý hành chính nhằm duy trì hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể.
- Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội
Chi cho hoạt động của các cơ quan quân sự, công an, biên phòng các cấp và các hoạt động đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo phân cấp.
- Chi khác
Ngoài các khoản chi thường xuyên lớn đã được sắp xếp vào 4 lĩnh vực trên, còn có một số khoản chi khác cũng được xếp vào cơ cấu chi thường xuyên như chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước, chi hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH), phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước...
Việc phân loại các khoản chi thường xuyên theo từng lĩnh vực nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng NSNN. Trên cơ sở đó, giúp cho việc hoạch định các chính sách chi NSNN hay hoàn thiện cơ chế quản lý phù hợp đối với mỗi khoản chi thường xuyên.
b. Phân loại các khoản chi thường xuyên theo nội dung kinh tế
Việc phân loại này nhằm phục vụ cho việc lập dự toán, quản lý việc phân bổ, quyết toán và đánh giá tình hình NSNN trong từng đơn vị sử dụng NSNN.
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực HCSN như tiền lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng, các khoản đóng góp theo tiền lương, chi về học bổng cho học sinh và sinh viên theo chế độ nhà nước quy định cho mỗi loại trường và các khoản thanh toán khác cho cá nhân.
- Các khoản chi về nghiệp vụ chuyên môn
Hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong các đơn vị HCSN rất khác nhau. Ở cơ quan công chứng nhà nước, hoạt động nghiệp vụ chuyên môn là xác nhận tính hợp pháp, hợp lý của các loại giấy tờ cho mỗi tổ chức, cá nhân có nhu cầu; thì ở các đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo là hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học; ở các đơn vị sự nghiệp y tế lại là hoạt động phòng bệnh, khám bệnh và chữa bệnh v.v...
Chi nghiệp vụ chuyên môn là những khoản chi phục vụ cho các hoạt động chuyên môn nói trên như chi phí về nguyên liệu, vật liệu; chi phí về năng lượng, nhiên liệu; chi phí cho nghiên cứu, hội thảo khoa học; chi phí về thuê mướn chuyên gia, giáo viên để tư vấn hay đào tạo cho đội ngũ nghiên cứu; chi phí để tiến hành khảo sát, tham quan học tập những điển hình tiên tiến về nghiên cứu và ứng dụng quy trình công nghệ…
Một đơn vị được đánh giá là quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên có hiệu quả khi tỷ trọng chi nghiệp vụ chuyên môn trong tổng số chi của đơn vị đó luôn phải được ưu tiên chỉ đứng sau các nhu cầu chi cho con người.
- Các khoản chi mua sắm, sửa chữa
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị HCSN được NSNN cấp kinh phí để mua sắm các tài sản hay sửa chữa các tài sản đang sử dụng. Các nhà kinh tế đều khuyến cáo rằng: nếu biết chi những đồng tiền để đáp ứng ngay cho các nhu cầu duy tu, bảo dưỡng tài sản đúng lúc, kịp thời thì sẽ góp phần tích cực trong việc kéo dài tuổi thọ của tài sản, chất lượng hoạt động của tài sản ít bị suy giảm và vì thế hiệu quả của vốn đầu tư được nâng cao.
Mức chi cho mua sắm, sửa chữa của mỗi đơn vị phụ thuộc vào số lượng, chất lượng tài sản của đơn vị đang quản lý và khả năng vốn NSNN có thể dành cho nhu cầu chi này.
- Các khoản chi khác
Chi hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, chi tiếp khách, đoàn ra, đoàn vào, điện, nước,… có thời hạn tác động ngắn nhưng chưa được đề cập tới ở 3 nhóm mục trên [9, 10].
c. Đặc điểm của chi thường xuyên
+ Thứ nhất, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định rõ nét do những chức năng vốn có của Nhà nước như tổ chức quản lý các hoạt động KTXH, đảm bảo an ninh trật tự… đều đòi hỏi phải có nguồn kinh phí ổn định để duy trì. Tính ổn định của chi thường xuyên còn bắt nguồn từ tính ổn định trong hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận thuộc guồng máy của Nhà nước phải thực hiện.
+ Thứ hai, xét theo cơ cấu chi NSNN ở từng niên độ và mục đích sử dụng cuối cùng thì đại bộ phận các khoản chi thường xuyên của NSNN có hiệu lực tác động trong thời gian ngắn và mang tính chất tiêu dùng xã hội. Nếu chi ĐTPT nhằm tạo ra các cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết thúc đẩy sự phát triển của nền KTXH trong tương lai, thì chi thường xuyên lại chủ yếu đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước về quản lý KTXH ngay trong năm hiện tại.
+ Thứ ba, phạm vi, mức chi thường xuyên của NSNN gắn chặt với cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước trong việc cung ứng các hàng hóa công cộng. Một bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả thì số chi thường xuyên cho nó cũng được giảm bớt và ngược lại. Quyết định của Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi và mức cung ứng các hàng hóa công cộng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi thường xuyên của NSNN [9].
1.1.3 Cơ cấu ngân sách nhà nước phục vụ phát triển kinh tế xã hội
Với vai trò của mình, NSNN là công cụ của Nhà nước để cùng với thị trường tác động tích cực vào nền kinh tế, tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển; hạn chế cơ chế quản lý trực tiếp, mệnh lệnh hành chính; mở rộng và tăng cường sử dụng tích cực các công cụ tài chính tiền tệ, sửa đổi bổ sung các chính sách tài chính phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. NSNN cần ưu tiên lựa chọn mục tiêu trung tâm, trọng điểm, đào tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển nhanh nền KTXH.
Trước đây, nhiều nhà kinh tế học chủ trương xây dựng một NS tối thiểu và cân bằng, có qui mô thu chi vừa đủ để duy trì hệ thống cơ sở hạ tầng; bảo đảm thực hiện các chức năng nhà nước công quyền, bảo vệ an ninh - quốc phòng, an toàn xã hội. Nghĩa là NSNN chỉ giới hạn trong tiêu dùng nằm ở khâu sau phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh. Hiện nay, quan điểm được nhiều quốc gia áp dụng là NSNN không chỉ phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh mà trước khi phân phối lại, NSNN đã tham gia phân phối các yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế (đầu tư hạ tầng KTXH, ĐTPT nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển thị trường, xúc tiến thương mại…). Với đặc điểm này, NSNN chủ động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cụ thể:
Thứ nhất, NSNN tác động trực tiếp đến việc tăng quy mô đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Là chủ đầu tư lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển KTXH. Ở Việt Nam cũng như đa số các nước đang phát triển trên thế giới, vốn đầu tư từ nguồn NSNN có một vị trí rất quan trọng, chiếm khoảng từ 22%-30% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, về mặt lượng, quy mô đầu tư vào nền kinh tế từ nguồn NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc tăng quy mô đầu tư của toàn xã hội.
Để thu hút vốn làm tăng quy mô đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, đòi hỏi Nhà nước phải tăng kinh phí đầu tư cho lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa thông tin, hệ thống giao thông và các cơ sở hạ tầng KTXH khác, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, thúc đẩy KTXH phát triển.
Thứ hai, quy mô và cơ cấu chi NSNN tác động mạnh mẽ đến quan hệ cung cầu trên thị trường và thông qua đó tác động đến nền kinh tế.
Với tư cách là chủ thể kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, Nhà nước chi tiêu nhiều hay ít sẽ tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến sức mua của thị trường. Nếu các bộ phận khác của tổng cầu không thay đổi, thì chi tiêu của nhà nước tăng sẽ tác động trực tiếp làm gia tăng tổng cầu của xã hội. Đến lượt nó, sự gia tăng của tổng cầu nhanh hơn sự gia tăng của tổng cung thì một mặt, nó làm tăng sức mua của xã hội, giảm thời gian lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển của vốn trong nền kinh tế, tăng GDP và tăng hiệu quả KTXH; mặt khác, mức dư cầu trên thị trường ở chừng mực nhất định làm tăng giá tiêu thụ hàng hóa ở mức độ vừa phải có tác động điều tiết mức tiêu dùng hợp lý hơn, đồng thời khuyến khích phát triển sản xuất, tăng đầu tư trong nền kinh tế.
Thứ ba, thông qua việc sử dụng NSNN, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phát triển bền vững, phù hợp với quy hoạch của tỉnh, không ngừng nâng cao hiệu quả KTXH.
Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu kinh tế của Nhà nước là làm tăng hiệu quả KTXH, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đất nước. Nếu việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế nặng vì mục tiêu xã hội, Nhà nước thực hiện chính sách tài khóa “nới lỏng”, mở rộng đầu tư từ nguồn NSNN hỗ trợ, bao cấp doanh nghiệp hoặc nâng mức động viên để Nhà nước có đủ nguồn lực thực hiện chính sách xã hội.
Với tư cách là công cụ kinh tế quan trọng, bằng nguồn lực tài chính của mình, Nhà nước sử dụng NSNN hỗ trợ gián tiếp hoặc trực tiếp đầu tư các ngành nghề cần phát triển, tác động vào nền kinh tế nhằm xác lập cơ cấu kinh tế theo mục tiêu hoạch định. Sự tác động của NSNN có ý nghĩa qua