Đề tài Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ

Hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ của nước ta được xây dựng ngày càng đồng bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, hệ thống này còn tồn tại một số bất cập. Một số quy định còn trùng lặp, chồng chéo nhau, chưa được sửa đổi kịp thời , còn mâu thuẫn nhau và lạc hậu so với thực tiễn. Quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan chưa đảm bảo tính đồng bộ. Thêm vào đó nguồn lực tài sản trí tuệ còn rất nhỏ bé và hầu như không đáng kể, trình độ công nghệ đang tụt hậu và ở khoảng cách rất xa so với nhiều nước trên thế giới. Xuất phát từ tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu cấp thiết cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cho việc này, em mạnh dạn chọn đề tài “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ”, gồm 3 nội dung chính là: 1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ 2. Hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu tài sản trí tuệ 3. Các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Nhà nước về sở hữu tài sản trí tuệ Do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức, thời gian và tài liệu tham khảo nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2898 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ của nước ta được xây dựng ngày càng đồng bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, hệ thống này còn tồn tại một số bất cập. Một số quy định còn trùng lặp, chồng chéo nhau, chưa được sửa đổi kịp thời , còn mâu thuẫn nhau và lạc hậu so với thực tiễn. Quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan chưa đảm bảo tính đồng bộ. Thêm vào đó nguồn lực tài sản trí tuệ còn rất nhỏ bé và hầu như không đáng kể, trình độ công nghệ đang tụt hậu và ở khoảng cách rất xa so với nhiều nước trên thế giới. Xuất phát từ tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu cấp thiết cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cho việc này, em mạnh dạn chọn đề tài “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ”, gồm 3 nội dung chính là: Cơ sở hoàn thiện pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ Hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu tài sản trí tuệ Các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật của Nhà nước về sở hữu tài sản trí tuệ Do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức, thời gian và tài liệu tham khảo nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. I. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ 1.1. Nhận dạng đặc điểm của tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ bao gồm: Các đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp và các đối tượng của quyền đối với giống cây trồng. Tài sản trí tuệ có tính vô hình, tính sáng tạo và đổi mới; có thể xác định được về bản chất, phạm vi, chức năng, công dụng và giá trị; có thể kiểm soát được và có khả năng sinh lợi khi khai thác, sử dụng. Tài sản trí tuệ có thể thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sở hữu của tập thể và sở hữu tư nhân. Đối với tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của Nhà nước, vấn đề lớn đang đặt ra là phải xác định rõ chủ thể có quyền quản lý, cơ chế phân chia lợi ích giữa cơ quan, tổ chức cấp vốn với nhà sáng tạo, phương thức quản lý, khai thác tài sản một cách hiệu quả nhất. Đặc điểm của quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là: Nó được chiếm hữu thông qua nhận thức. Nhờ nhận thức mà bản chất (nội dung) của tài sản trí tuệ có thể được lan truyền từ người này sang người khác. Do vậy, cùng một lúc, nhiều người có thể cùng chiếm hữu đối với một tài sản trí tuệ một cách độc lập với nhau. Do đặc tính này mà tài sản trí tuệ rất dễ bị sao chép, bị đánh cắp. Quyền “sử dụng” của chủ sở hữu được hiểu là quyền độc quyền trong việc sử dụng, khai thác các lợi ích vật chất do tài sản trí tuệ mang lại và quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng, khai thác tài sản trí tuệ. Trên thực tế, các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ gặp khó khăn trong việc khai thác tài sản trí tuệ, do thiếu quy định hướng dẫn cụ thể về phương thức định giá, cơ chế hạch toán tài sản trí tuệ. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tài sản trí tuệ trở thành động lực của sự phát triển, là lợi thế và là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất của doanh nghiệp. Thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy, giá trị của tài sản trí tuệ nói riêng và tài sản vô hình nói chung chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp và trong nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta, nguồn lực và giá trị tài sản trí tuệ của các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé. Số lượng các doanh nghiệp quan tâm đến việc tạo lập, đăng ký xác lập quyền đối với tài sản trí tuệ chiếm tỷ lệ chưa cao. Nhiều doanh nghiệp còn lúng túng trong việc khai thác, ứng dụng tài sản trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 1.2. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ Đối với nhiều nước phát triển, thì “tài sản trí tuệ” và “sở hữu trí tuệ” (SHTT) là những khái niệm không mới và đã có từ lâu. Luật Venice năm 1474 của Italia trong thời kỳ phục hưng là đạo luật đầu tiên quy định việc bảo hộ sáng chế như một tài sản dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế, tiếp đó, các khái niệm “tài sản trí tuệ”, “sở hữu trí tuệ” đã lan tỏa một cách nhanh chóng trong suốt thế kỷ 16 sang các nước Đức, Pháp, Phần Lan và Anh. Nửa đầu thế kỷ 18, với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại và công nghiệp, một số nước đã bắt đầu thiết lập các đạo luật đầu tiên của họ nhằm bảo hộ quyền SHTT (Anh, Pháp, Hoa kỳ,…). Tới cuối thế kỷ thứ 19, một cuộc cách mạng công nghiệp với quy mô lớn đã hình thành dựa trên các phương thức sản xuất mang tính sáng tạo, mở đường cho quá trình công nghiệp hoá một cách mạnh mẽ, tạo tiền đề cho nhiều nước xây dựng các đạo luật về bảo hộ quyền SHTT. Hệ thống SHTT quốc tế cũng ra đời với hai điều ước quốc tế được coi là nền tảng là Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp (SHCN) và Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật. Từ những năm 1990, một số nước phát triển đã sử dụng biện pháp thương mại để kiềm chế nạn chiếm đoạt quyền SHTT ở nước ngoài. Hiệp định TRIPS đã trở thành một trong các hiệp định thuộc khuôn khổ đàm phán đa phương tại Vòng đàm phán Uruguay và được thông qua cùng Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới. Hiệp định này đã thiết lập các chuẩn mực mang tính toàn cầu cho việc bảo hộ và thực thi quyền SHTT, ràng buộc đối với tất cả các nước, kể cả các nước đang phát triển và kém phát triển. Ngày nay, hệ thống bảo hộ tài sản trí tuệ đã trở thành đòi hỏi có tính toàn cầu và luôn được coi là một trong các vấn đề có tính then chốt, hiện diện trong các hoạt động kinh tế, thương mại giữa các nước, các tổ chức, các khu vực và đặc biệt là trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). II. Hệ thống pháp luật về sở hữu tài sản trí tuệ 2.1. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ 2.1.1. Tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ được hiểu theo nghĩa rộng là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ của con người. Trong các tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, tài sản trí tuệ được hiểu một cách cụ thể và rất rộng. Đó là bất kỳ một nội dung tri thức nào do tổ chức hoặc cá nhân nắm giữ, không phụ thuộc việc nó được bảo hộ bởi pháp luật hay chỉ có tính hữu ích thông thường, chỉ cần nó có giá trị đối với ai đó. Trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, tài sản trí tuệ đã trở thành đối tượng được tính đến của các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế như: kế toán và kiểm toán, ngân hàng, thương mại và tài chính, quản trị nhân sự v.v. Trong các hoạt động này, tài sản trí tuệ được tiếp cận khá đa dạng, ví dụ trong Bảng cân đối tài sản không truyền thống bao gồm các giá trị của các đối tượng thuộc tài sản trí tuệ như nhân sự trình độ cao, vốn trí tuệ… Dưới góc độ pháp lý, tài sản trí tuệ thường được hiểu hẹp hơn nhiều, kể cả trong pháp luật của các nước phát triển do nhu cầu đối với loại tài sản này và khả năng điều chỉnh pháp luật một cách thành công với nó. Cụ thể, tính hữu ích và lợi ích thu được từ tài sản trí tuệ có thể dễ dàng nhận diện, song khả năng điều chỉnh tài sản này dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu là điều không phải lúc nào cũng dễ dàng trong mọi trường hợp và đối với mọi loại tài sản trí tuệ, nhất là khi thế giới chưa có được cách tiếp cận thống nhất về bản chất và các loại tài sản trí tuệ. Chính vì vậy, hầu hết các nước hiện đang điều chỉnh tài sản trí tuệ dưới góc độ là đối tượng của quyền sở hữu chỉ với quyền sở hữu trí tuệ. Nói một cách ngắn gọn, tài sản trí tuệ thường được đồng nhất với quyền sở hữu trí tuệ. Khuynh hướng này còn kéo dài do bản chất của tài sản trí tuệ là tài sản vô hình nên việc định hình được để bảo hộ là điều không dễ, trừ các quyền sở hữu trí tuệ truyền thống đã được xác định và điều chỉnh từ hàng trăm năm nay. Như vậy, việc mở rộng khái niệm tài sản trí tuệ ra ngoài các quyền sở hữu trí tuệ chưa hiện thực và khó có thể xảy ra trong tương lai gần do đòi hỏi việc nghiên cứu, thử nghiệm và kiểm nghiệm trên thực tế, nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên, Quan điểm đồng nhất tài sản trí tuệ với quyền sở hữu trí tuệ đã được thể hiện rõ trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam, cụ thể, tài sản trí tuệ bao gồm: (i) Các đối tượng của quyền tác giả (gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa) và các đối tượng của quyền liên quan đến quyền tác giả (gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá); (ii) Các đối tượng của quyền SHCN (gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý); (iii) Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng (gồm giống cây trồng và vật liệu nhân giống). 2.1.2. Bản chất của tài sản trí tuệ (i) Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình: tài sản trí tuệ không có bản chất vật lý và chúng tồn tại dưới dạng các thông tin, tri thức chứa đựng sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người, do đó, tài sản trí tuệ có khả năng lan truyền và nhiều người có thể cùng độc lập chiếm giữ và sử dụng cùng một lúc. (ii) Tài sản trí tuệ có thể xác định được về bản chất (nội dung), phạm vi (giới hạn), chức năng, công dụng và giá trị. (iii) Tài sản trí tuệ có thể kiểm soát được: con người có thể kiểm soát và tác động đến tài sản trí tuệ thông qua các hành vi: sản xuất, sử dụng (khai thác), duy trì, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn… nhằm những mục đích nhất định, trong đó mục đích quan trọng nhất là tạo ra giá trị (vật chất hóa) tài sản trí tuệ. (iv) Tài sản trí tuệ có khả năng sinh lợi: khi được sử dụng (bán, chuyển giao, cho thuê, trao đổi,…), tài sản trí tuệ có khả năng đem lại cho người khai thác, sử dụng nó các lợi ích vật chất. (v) Tài sản trí tuệ mang đặc tính sáng tạo và đổi mới: khi được tạo ra, tài sản trí tuệ phải là một đối tượng mới hoặc là một đối tượng đã biết nhưng được bổ sung cái mới (được đổi mới). Nói theo cách khác, mỗi một tài sản trí tuệ là một sản phẩm của hoạt động sáng tạo. 2.1.3. Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ: Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì “quyền sở hữu trí tuệ” bao gồm các quyền liên quan tới các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học; chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình; sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người; các phát minh khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hoặc nghệ thuật”. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tại Việt Nam, quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ (quyền SHTT) được xác định trong Luật Sở hữu trí tuệ như sau: “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghệp và quyền đối với giống cây trồng”. Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ mang một số đặc tính sau đây: (i) Về căn cứ xác lập: Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ dựa trên hai nhóm căn cứ khác nhau: - Nhóm quyền phát sinh một cách tự nhiên: là quyền được tự động phát sinh cùng với sự ra đời của tài sản trí tuệ, nếu đáp ứng một số điều kiện nào đó mà không cần phải thực hiện thủ tục đăng ký xác lập quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được phát sinh một cách tự nhiên bao gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng; tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá), quyền đối với tên thương mại, bí mật kinh doanh. - Nhóm quyền phát sinh trên cơ sở đăng ký: là quyền chỉ được xác lập khi thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Các tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở đăng ký bao gồm sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng. (ii) Về các hình thức sở hữu: Tài sản trí tuệ có thể thuộc sở hữu của Nhà nước, sở hữu của tập thể hoặc sở hữu của cá nhân và trên thực tế, phần lớn các tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của cá nhân: - Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu Nhà nước: bao gồm các chỉ dẫn địa lý, tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của Nhà nước và các tài sản trí tuệ mà Nhà nước có được từ hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sở hữu, nhận góp vốn...; - Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của tập thể: bao gồm tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của tập thể. - Tài sản trí tuệ thuộc sở hữu của cá nhân: bao gồm các tài sản trí tuệ được tạo ra trên cơ sở sử dụng kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất và kỹ thuật của cá nhân và các tài sản trí tuệ mà cá nhân có được trên cơ sở nhận chuyển nhượng quyền sở hữu theo hợp đồng, được thừa kế… 2.1.4. Sự cần thiết của việc bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ Bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, vì các lý do sau đây: a) Tài sản trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế: Tỷ trọng giá trị của tài sản trí tuệ và tài sản vô hình nói chung trong tổng số giá trị tài sản của doanh nghiệp và trong nền kinh tế ngày càng cao. Tại một số doanh nghiệp và một số nước, tỷ lệ đó đã vượt quá 50%, chẳng hạn tỷ lệ này ở Hoa Kỳ trong năm 1982 là 38% nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 70%; Tại Anh, khoảng một nửa giá trị gia tăng năm 1997 là do các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức mang lại, trong khi đó, con số này ở Đức là 60%; Trên thế giới, có nhiều doanh nghiệp (Gillette, Coca-Cola, Microsoft, Yahoo…) giá trị tài sản vô hình chiếm tới trên 80% trong tổng số giá trị tài sản của doanh nghiệp. Tài sản trí tuệ trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất và là động lực của sự phát triển. Trong khi đó, thực tiễn hiện nay ở nước ta cho thấy mặc dù đã có nhiều doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của tài sản trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng số lượng các doanh nghiệp thực sự quan tâm đến việc tạo lập, đăng ký xác lập quyền đối với tài sản trí tuệ chiếm tỷ lệ chưa cao, nhiều doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. b) Bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là công cụ khuyến khích, thúc đẩy một cách hữu hiệu hoạt động sáng tạo khoa học công nghệ, văn hóa - xã hội và trong kinh doanh Thông qua việc thừa nhận và bảo vệ của pháp luật đối với quyền sở hữu tài sản trí tuệ mà chủ thể (người nắm giữ) các quyền đó mới có thời gian, môi trường pháp lý thuận lợi để tiến hành việc sử dụng, khai thác tài sản trí tuệ thuộc quyền sở hữu của mình, nhờ đó không những có thể bù đắp các chi phí đầu tư để tạo ra tài sản trí tuệ mà còn có thể thu được lợi nhuận từ việc khai thác tài sản. Do vậy, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là một công cụ đắc lực, không thể thay thế trong việc thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, bao gồm cả sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học - công nghệ lẫn kinh doanh. b) Bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ là công cụ hữu hiệu khắc phục các lệch lạc trong hoạt động thương mại, bảo đảm cạnh môi trường tranh lành mạnh Tài sản trí tuệ rất dễ bị xâm phạm (do dễ bị sao chép, bắt chước), dó đó, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ đóng vai trò một công cụ đắc lực ngăn ngừa và chặn đứng các tệ nạn sao chép các sản phẩm có uy tín, sản xuất, buôn bán hàng nhái, hàng giả... đang ngày càng tăng và gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Các biện pháp chế tài có tác dụng xử lý và răn đe những người thực hiện các hành vi xâm phạm, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và góp phần khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong hoạt động thương mại. c) Bảo hộ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là công cụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ Trong nền kinh tế mới, sự giàu có dựa vào chiếm hữu tài sản vật chất đã dần được thay thế bằng việc nắm giữ các tri thức - nguồn của cải vô cùng to lớn trong xã hội. Các doanh nghiệp ngày càng nhận ra giá trị tiềm ẩn của SHTT và tăng cường các hoạt động quản lý, sử dụng, khai thác tài sản trí tuệ của mình. Việc bảo hộ tốt quyền sở hữu tài sản trí tuệ trở thành nhân tố quan trọng khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển nền kinh tế của đất nước, thúc đẩy các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ, qua đó sẽ góp phần cải thiện vị thế của quốc gia trong cuộc cạnh tranh với các nước khác nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư và khuyến khích các hoạt động chuyển giao, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại. 2.2. Hệ thống pháp luật hiện hành về sở hữu đối với tài sản trí tuệ 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống văn bản pháp luật về sở hữu đối với tài sản trí tuệ của nước ta Trong quy định tại Điều 34 của Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và khẳng định rõ: “Nhà nước giúp đỡ và khuyến khích tính sáng tạo của công dân...”. Các quan điểm nói trên đã tiếp tục được kế thừa và phát triển trong quy định của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Trong những năm 1959, 1960, một số văn bản pháp luật liên quan đến SHCN đã bắt đầu được hình thành, song chủ yếu mới chỉ dừng lại các quy định khuyến khích các hoạt động sáng kiến. Chỉ trong những năm của thập kỷ 80, pháp luật về SHTT mới thực sự có những bước tiến quan trọng. Năm 1986, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 142/HĐBT, đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực quyền tác giả. Cũng trong thời gian này, một số văn bản pháp luật về SHCN đã được ban hành nhằm bảo hộ một số đối tượng truyền thống của quyền SHCN như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, và các sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Tiếp theo đó, năm 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền SHCN và năm 1994, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả cũng đã được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ các khía cạnh của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền SHCN. Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta được ban hành, các quy định tại Phần thứ sáu của Bộ luật về quyền SHTT và chuyển giao công nghệ đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về hoạt động lập pháp của nước ta trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, một số quy định có liên quan đến SHTT cũng đã được thể hiện trong các đạo luật chuyên ngành như Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Luật Hải quan, Luật Cạnh tranh... Năm 2005, Bộ luật Dân sự mới đã được ban hành, thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995. Việc bảo hộ quyền SHTT vẫn được quy định tại Phần thứ sáu, nhưng chỉ bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc, các quy định cụ thể chủ yếu được điều chỉnh trong Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005. Sau khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành, một loạt các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các bộ, ngành có liên quan cũng đã được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả, quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng. Trong quan hệ quốc tế, cho đến nay, Nhà nước ta đã tham gia nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực SHTT. 2.2.2. Nhận định về thống pháp luật hiện hành về sở hữu đối với tài sản trí tuệ Các văn bản pháp luật về sở hữu đối với tài sản trí tuệ của nước ta đã bao quát một số nội dung cơ bản như các nguyên tắc và một số chính sách bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ; điều kiện, căn cứ phát sinh, xác lập, trình tự và thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu tài sản trí tuệ; chủ thể có quyền sở hữu tài sản trí tuệ, nội dung và giới hạn các quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, việc bảo vệ (thực thi) quyền SHTT và các cơ chế hỗ trợ hoạt động bảo hộ quyền SHTT. Có thể nhận định một cách tổng quát rằng hệ thống văn bản pháp luật
Luận văn liên quan