Cả thế giới vẫn đang trong giai đoạn khắc phục những tổn thất nặng nề mà cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa diễn ra năm 2008 – 2009, khởi nguồn từ sự sụp đổ của những định chế tài chính lớn trên thế giới, trong đó có những đại gia ngành ngân hàng.
Có thể nói, ngân hàng thương mại ( NHTM ) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt và bản thân các NHTM cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong thị trường tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong đó, quan trọng nhất và cũng là hoạt động chiếm thị phần lớn nhất của ngân hàng đó là hoạt động tín dụng. Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của các đại gia ngành ngân hàng vừa qua đều xuất phát từ những khỏan nợ xấu, đó là hồi chuông báo động đến toàn bộ hệ thống NHTM trên toàn thế giới về vấn đề an ninh tín dụng, trong đó có các NHTM Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng rủi ro tín dụng chiếm tới 70 % rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Thực tế hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này. Bên cạnh những nỗ lực tạo dựng một cơ cấu tín dụng lành mạnh như quy trình tín dụng được thực hiện gần với chuẩn mực thế giới, giảm dần tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập như hiệu quả tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam hầu hết đang sử dụng “phương pháp dựa trên đánh gía nội bộ” theo Basel II.Đây là nòng cốt của biện pháp quản trị rủi ro tín dụng. Đối với khách hàng doanh nghiệp thì đây chính là phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công Thương, Chi nhánh Chương Dương, tôi đã có cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp của ngân hàng. Trên cơ sở những gì đã tìm hiểu được tôi chọn đề tài : “Hòan thiện mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng Công Thương Chi nhánh Chương Dương” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp với nội dung bao gồm:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về chấm điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại NHTM
- Chương II: Thực trạng hoạt động chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp tại NHCT Chi nhánh Chương Dương
- Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp tại NHCT Chi nhánh Chương Dương
91 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng Công Thương Chi nhánh Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cả thế giới vẫn đang trong giai đoạn khắc phục những tổn thất nặng nề mà cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa diễn ra năm 2008 – 2009, khởi nguồn từ sự sụp đổ của những định chế tài chính lớn trên thế giới, trong đó có những đại gia ngành ngân hàng.
Có thể nói, ngân hàng thương mại ( NHTM ) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt và bản thân các NHTM cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong thị trường tài chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong đó, quan trọng nhất và cũng là hoạt động chiếm thị phần lớn nhất của ngân hàng đó là hoạt động tín dụng. Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của các đại gia ngành ngân hàng vừa qua đều xuất phát từ những khỏan nợ xấu, đó là hồi chuông báo động đến toàn bộ hệ thống NHTM trên toàn thế giới về vấn đề an ninh tín dụng, trong đó có các NHTM Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng rủi ro tín dụng chiếm tới 70 % rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Thực tế hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này. Bên cạnh những nỗ lực tạo dựng một cơ cấu tín dụng lành mạnh như quy trình tín dụng được thực hiện gần với chuẩn mực thế giới, giảm dần tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh…thì vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập như hiệu quả tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam hầu hết đang sử dụng “phương pháp dựa trên đánh gía nội bộ” theo Basel II.Đây là nòng cốt của biện pháp quản trị rủi ro tín dụng. Đối với khách hàng doanh nghiệp thì đây chính là phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công Thương, Chi nhánh Chương Dương, tôi đã có cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp của ngân hàng. Trên cơ sở những gì đã tìm hiểu được tôi chọn đề tài : “Hòan thiện mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng Công Thương Chi nhánh Chương Dương” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp với nội dung bao gồm:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chấm điểm tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp tại NHCT Chi nhánh Chương Dương
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp tại NHCT Chi nhánh Chương Dương
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI NHTM
Tổng quan về tín dụng NHTM
Khái niệm tín dụng NHTM
Tín dụng ( credit ) xuất phát từ chữ La Tinh là Credo có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ “ tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng nghĩa phổ biến nhất là quan hệ vay mượn giữa bên cho vay và bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản ( tiền hoặc hàng hóa ) cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn.
Trong nền kinh tế thị trường bao gồm 6 loại hình quan hệ tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội và các tổ chức tín dụng khác theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, nguồn huy động từ bên ngoài để cấp tín dụng. Theo điều 49 luật các tổ chức tín dụng nước Việt Nam có ghi : “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bao lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định của Ngân hàng nhà nước”
Phân loại tín dụng ngân hàng
Theo thời hạn
Phân chia tín dụng theo thời hạn rất có ý nghĩa với ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Tín dụng ngắn hạn
Là loại cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động hoặc vốn ngắn hạn.
Tín dụng trung hạn
Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho tài sản cố định.
Tín dụng dài hạn
Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm tài trợ cho các công trình xây dựng.
Theo hình thức tài trợ
Chiết khấu thương phiếu
Cho vay : gồm cho vay thấu chi, trực tiếp từng lần, theo hạn mức, luân chuyển, trả góp, cho vay gián tiếp.
Cho thuê
Bảo lãnh : gồm bảo lãnh thực hiện hợp đồng, đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, hoàn trả vốn vay và bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Theo tài sản đảm bảo
Tín dụng không có tài sản đảm bảo : thường cấp cho khách hàng có uy tín, làm ăn lâu năm…
Tín dụng có tài sản đảm bảo: thế chấp, cầm cố…
Theo rủi ro
Gồm tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trữ cho các khoản tín dụng.
Phân loại khác
Theo ngành kinh tế, theo đối tượng cấp tín dụng, theo đồng tiền cho vay….
Rủi ro tín dụng ngân hàng
Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có qui mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán được chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do đó, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng hoặc hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
° Những nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô
Môi trường kinh tế
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường kinh tê xã hội. Môi trường kinh tế không thuận lợi sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, mỗi đồng vốn không phát huy được hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay của doanh nghiệp bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trong một nên kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất, tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất có nhiều điều kiện để phát triển. Doanh nghiệp làm ăn thuận lợi thì khả năng trả nợ vay sẽ tốt hơn và các khoản cho vay của ngân hàng được đảm bảo khả năng hoàn trả cao hơn.
Một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu tư bị giảm sút sẽ có tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Không chỉ giới hạn trong nền kinh tế của một nước mà các biến động về kinh tế thế giới đều có tác động xấu đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Môi trường pháp lý
Đây là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, ý thức tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia kinh doanh và các ngành có liên quan còn yếu kém. Chính những nhân tố này đã không đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, không tạo ra tính an toàn cho hoạt động kinh doanh, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên nợ quá hạn cho ngân hàng. Một môi trường pháp lý không hoàn chỉnh vừa gây khó khăn, vừa tạo khe hở cho những kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng.
Môi trường xã hội
Là một nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, do đó đạo đức xã hội có liên quan tới rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo. Trình độ dân trí kém hiểu biết hay thay đổi tâm lý xã hội cũng có khả năng hạn chế trả nợ của người vay.
Nguyên nhân bất khả kháng
Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn chịu tác động của các nhân tố khác như: thiên tai, chiến tranh hay những thay đổi ở tầm vĩ mô như thay đổi chính phủ, thay đổi chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của cả người vay và cho vay.
° Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ, tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng trong ngân hàng
Cán bộ tín dụng yếu kém cả về trình độ, năng lực nghiệp vụ, không có khả năng phân tích, thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, công tác thông tin vừa thiếu vừa yếu… dẫn đến đánh gía sai hiệu quả dự án, thời hạn cho vay, trả nợ không phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh.
Cán bộ tín dụng yếu kém còn dẫn đến hiện tượng không phát hiện được sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay định giá tài sản đảm bảo không hợp lý gây ra những tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ.
Sự lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám sát các khoản cho vay cũng dẫn đến việc không phát hiện kịp thời hiện tượng vốn vay bị sử dụng sai mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng.
Cán bộ tín dụng yếu kém về tư cách đạo đức còn có thể lợi dụng vị trí của mình để trục lợi, nhận hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc.
Nguyên nhân xuất phát từ cơ chế, chính sách của ngân hàng
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng đó và trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng . Chính sách tín dụng không phù hơp có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và có thể tạo ra nhiều rủi ro.
Một chính sách tín dụng quá mở rộng thì có rủi ro cao, nợ quá hạn gia tăng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đa dạng, dẫn đến tập trung tài trợ cho một số khách hàng, lĩnh vực cũng tạo nên nguy cơ rủi ro cao.
° Nguyên nhân từ phía khách hàng
Khách hàng là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng. Theo thống kê cho thấy khả năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là phổ biến nhất bởi khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay.
Khách hàng làm ăn thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ:
Có thể do khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng chưa được tốt, khả năng thích ứng thị trường thấp làm cho hoạt động kinh doanh bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ hoặc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đảm bảo độ an toàn.
Khách hàng không tuân thủ các quy định, cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn của ngân hàng:
Bằng cách cung cấp thông tin không chính xác, mua chuộc cán bộ tín dụng để vay được nhiều. Thậm chí có những khách hàng kinh doanh có lãi song vẫn không chịu trả nợ ngân hàng đúng hạn, chây ì với kỳ vọng được quỵt nợ hoặc có thể sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây là trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng, nó biểu hiện một hành động có chủ ý xấu của người vay đã được tính toán, chuẩn bị trước nhằm chiếm đoạt tiền vay, loại nguyên nhân này được coi là rủi ro về tư cách đạo đức của người vay.
Các công cụ quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng:
Đứng trước quyết định cho vay cán bộ tín dụng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng được coi là nội dung quản lý quan trọng của ngân hàng thương mại. Dưới đây là một số công cụ để quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại:
° Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tiến hành tài trợ cho khách hàng. Một quy trình tín dụng hợp lý, thống nhất sẽ giúp cán bộ tín dụng quản lý khoản vay một cách chặt chẽ, tránh sự chủ quan, duy ý chí. Về cơ bản, một quy trình tín dụng được chia làm 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi cho vay:
Giai đoạn trước khi cho vay: thu thập thông tin và xử lý các thông tin có liên quan đến khách hàng để đánh giá tổng thể về khách hàng, phương án và khả năng trả nợ của khách hàng.
Giai đoạn trong khi cho vay: trong giai đoạn này CBTD tiến hành kiểm soát khách hàng xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không, quá trình sản xuất kinh doanh có bất lợi gì không, các khoản lãi có được trả đúng hạn không…
Giai đoạn sau khi cho vay: nội dung cần làm trong giai đoạn này là thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu đủ gốc và lãi. Các khoản tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là những khoản tín dụng an toàn. Trường hợp khoản tín dụng bị trì hoãn trả nợ ngân hàng xem xét tùy trường hợp mà quyết định gia hạn nợ hay phong tỏa tài sản, gán xiết nợ.
° Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng bao gồm các quy định về cho vay của ngân hàng. Chính sách này được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân hàng, hình thành cơ chế lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Mỗi chính sách tín dụng đều phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng, tạo sự thống nhất cho hoạt động tín dụng.
° Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng
- Mô hình định tính
Ngân hàng thường sử dụng mô hình 6C để phân tích khách hàng:
+ Character: tư cách của người vay
Ngân hàng căn cứ vào tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay rõ ràng và thiện chí trả nợ của người vay để đánh giá.
+ Capacity: Năng lực của người vay
Năng lực hành vi và năng lực pháp lý là điều kiện cần để kí kết hợp đồng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo người vay có đủ điều kiện do pháp luật quy định thì mới ký kết hợp đồng.
+ Cash: Thu nhập của người vay
Thu nhập của người vay là điều kiện cơ bản tạo ra nguồn trả nợ cho Ngân hàng vì vậy cán bộ tín dụng phải căn cứ phương án sản xuất kinh doanh của người vay để xác định khả năng thu nhập, khả năng trả nợ của người vay.
+ Collateral: Bảo đảm tiền vay
Ngân hàng qui định khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng đối với các khoản cho vay nhất định. Vì khách hàng luôn gặp rủi ro trong kinh doanh nên khả năng mất nợ của ngân hàng là khó tránh khỏi. nếu rủi ro xảy ra thì tài sản đảm bảo sẽ là nguồn trả nợ thứ hai khi không có nguồn trả nợ thứ nhất từ hoạt động kinh doanh mang lại.
+ Conditions: các điều kiện
Cán bộ tín dụng phải đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng đến khoản cho vay như : xu hướng công việc, ngành nghề kinh doanh, điều kiện kinh tế …
+ Control: kiểm soát
Tập trung vào các vấn đề: thay đổi trong luật pháp, quy chế…
Mô hình định lượng
Để thực hiện quản trị rủi ro tín dụng, Hiệp ước Basel II cho phép các ngân hàng lựa chọn giữa “ Phương pháp dựa trên đánh gía tiêu chuẩn” và “ Phương pháp dựa trên đánh giá nội bộ”. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đều đang xây dựng phương pháp đánh giá nội bộ, đây chính là nòng cốt của quản trị rủi ro tín dụng. Phương pháp đánh giá nội bộ hay còn gọi là xếp loại nội bộ, đối với khách hàng doanh nghiệp thì đây chính là phương pháp xếp hạng tín dụng.
Mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp tại NHTM
Khái niệm chấm điểm tín dụng
Ngay từ năm 1909, Công ty John Moodys của Mỹ đã bắt đầu công việc xếp hạng các trái phiếu đường sắt của Mỹ. Cho đến ngày nay, Moodys vẫn là một tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới. Không chỉ có Moodys, trên thế giới đã ra đời nhiều tổ chức xếp hạng nổi tiếng khác như Standard & Poors, Fitch’s…Cho đến năm 1960 thì xếp hạng tín nhiệm đã trở thành một hoạt động phổ biến ở các nước phát triển. Tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ.
Xếp hạng doanh nghiệp là đánh giá một cách có hệ thống khả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai dựa vào tình hình tài chính của họ trong quá khứ và hiện tại, tính khả thi của dự án, uy tín trong quan hệ tín dụng, môi trường kinh doanh. Hay nói cách khác xếp hạng doanh nghiệp chính là xếp hạng mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
Tín nhiệm doanh nghiệp là ý kiến về khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính được đưa ra bởi một tổ chức định mức tín nhiệm. Ý kiến này tập trung vào việc đánh giá khả năng và mong muốn của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết tài chính khi chúng tới hạn. Tín nhiệm doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm theo khả năng mà doanh nghiệp có đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính của mình hay không.
Mục đích của việc xếp hạng tín dụng và chấm điểm khách hàng doanh nghiệp
Việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ ngân hàng cho vay trong việc: - Ra quyết định cấp tín dụng:
Xác định hạn mức tín dụng của một doanh nghiệp, số tiền cho vay hoặc bảo lãnh, thời hạn tín dụng, mức phí suất và lãi suất tín dụng, biện pháp đảm bảo cho khoản tín dụng.
Giám sát và đánh giá doanh nghiệp khi khoản tín dụng đang còn dư nợ:
Xếp hạng doanh nghiệp cho phép ngân hàng cho vay lường trước được những dấu hiệu xấu về chất lượng khoản vay và có biện pháp đối phó kịp thời.
Xếp hạng doanh nghiệp còn giúp ngân hàng phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới khách hàng ít rủi ro hơn.
Xếp hạng tín dụng còn giúp ngân hàng ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không có khả năng thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng một cách hợp lý.
Nguyên tắc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp
Trong quá trình chấm điểm tín dụng, cán bộ chấm điểm tín dụng ( CBCĐTD ) sẽ thu được điểm ban đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng CBCĐTD xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó.
Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng ( chỉ số tài chính hoặc tiêu chí phi tài chính ) xét trên góc độ tác động rủi ro tín dụng.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, CBCĐTD sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí tín dụng theo nguyên tắc:
Đối với mỗi tiêu chí trên bảng đánh giá các tiêu chí, chỉ số thực tế gần với trị số nào nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần ( lớn hơn hoặc bằng 100% giá trị khoản tín dụng ) của một số tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn, thì khách hàng có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạng tín dụng của bên bảo lãnh ( nếu bên bảo lãnh cũng được ngân hàng cho vay chấm điểm ).
Quy trình chấm điểm của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng cho chính khách hàng.
CBCĐTD sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên tắc đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn và trường hợp khách hàng có bảo lãnh.
Quy trình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp
Thu thập thông tin
Có thể nói đây là bước quan trọng nhất của công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng doanh nghiệp. Thông tin về doanh nghiệp sẽ quyết định tất cả các bước tiếp theo.
Thu thập thông tin được càng nhiều càng tốt, thông tin phải đảm bảo độ trung thực, chính xác. Để thực hiện được bước này một cách chính xác thì đòi hỏi sự thận trọng của cán bộ tín dụng, sự phán đoán, phân tích hợp lý dựa trên những thông tin khách hàng cung cấp, cũng như sự trung thực của khách hàng. Các nguồn cung cấp thông tin chủ yếu bao gồm:
- Hồ sơ do khách hàng cung cấp: giấy tờ pháp lý, các báo cáo tài chính và các tài liệu khác:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi tới ngân hàng giấy đề nghị vay vốn và các giấy tờ cần thiết khác để chứng minh đủ điều kiện vay