Quản lý kinh tế nói chung và quản lý kinh tế doanh nghiệp nói riêng trong
nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và điều tiết của những quy luật kinh tế
khách quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, giá cả đòi hỏi phải
cung cấp những thông tin một cách kịp thời, chính xác và toàn diện về tình hình
thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tình hình quản lý và sử dụng lao
động, vật tư, tiền vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh, làm cơ sở đề ra các
chủ trương, chính sách và biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế.
Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý doanh nghiệp cần phải nhận thức và áp dụng các phương pháp quản lý hữu
hiệu trong đó có phân tích hoạt động kinh tế. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động
kinh tế rất phức tạp và mang tính đặc thù. Nó liên quan và tác động đến rất nhiều
ngành kinh tế kỹ thuật. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của
nhiều ngành, nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Phạm vi hoạt động của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất rộng rãi. Do vậy nó chịu sự cạnh tranh gay
gắt của thị trường quốc tế trong quan hệ buôn bán. Để có thể tồn tại và phát
triển, kinh doanh có lãi trong cơ chế thị trường, đòi hỏi các nhà kinh doanh phải
nhận thức tầm quan trọng và thực hiện thường xuyên phân tích các hoạt động
kinh tế. chính vì vai trò quan trọng của hoạt động phân tích mà em đã chọn đề
tài: “Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu” để làm
luận văn tốt nghiệp.
Qua một thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội,
em đã được tìm hiểu về chức năng, đặc điểm, nhiệm vụ của công ty, tình hình
thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh tế tại công ty, em đã sử dụng những
lý thuyết đã được học ở trường kết hợp với thực tế để viết bản luận văn này.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vần đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân
tích hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu tại Công
ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 2
Chương III: Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất
khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
93 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Hoàn thiện nội dung
phân tích tình hình và hiệu quả
xuất khẩu
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 1
LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý kinh tế nói chung và quản lý kinh tế doanh nghiệp nói riêng trong
nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và điều tiết của những quy luật kinh tế
khách quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, giá cả… đòi hỏi phải
cung cấp những thông tin một cách kịp thời, chính xác và toàn diện về tình hình
thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tình hình quản lý và sử dụng lao
động, vật tư, tiền vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh, làm cơ sở đề ra các
chủ trương, chính sách và biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế.
Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý doanh nghiệp cần phải nhận thức và áp dụng các phương pháp quản lý hữu
hiệu trong đó có phân tích hoạt động kinh tế. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động
kinh tế rất phức tạp và mang tính đặc thù. Nó liên quan và tác động đến rất nhiều
ngành kinh tế kỹ thuật. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của
nhiều ngành, nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Phạm vi hoạt động của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất rộng rãi. Do vậy nó chịu sự cạnh tranh gay
gắt của thị trường quốc tế trong quan hệ buôn bán. Để có thể tồn tại và phát
triển, kinh doanh có lãi trong cơ chế thị trường, đòi hỏi các nhà kinh doanh phải
nhận thức tầm quan trọng và thực hiện thường xuyên phân tích các hoạt động
kinh tế. chính vì vai trò quan trọng của hoạt động phân tích mà em đã chọn đề
tài: “Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu” để làm
luận văn tốt nghiệp.
Qua một thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội,
em đã được tìm hiểu về chức năng, đặc điểm, nhiệm vụ của công ty, tình hình
thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh tế tại công ty, em đã sử dụng những
lý thuyết đã được học ở trường kết hợp với thực tế để viết bản luận văn này.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vần đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân
tích hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu tại Công
ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 2
Chương III: Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất
khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH XUẤT KHẨU
1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm hoạt
động kinh doanh xuất khẩu
1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà hàng hoá
dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác.
* Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau:
+ Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại được ký
kết của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần kinh tế ở nước
ngoài không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua các
đường biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng không.
+ Hàng gia công chuyển tiếp
+ Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia công
trực tiếp với nước ngoài.
+ Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán cho người
mua nước ngoài nhưng giao hàng tại Việt Nam
+ Hàng hoá do các chuyên gia, người lao động, học sinh, người du lịch
mang ra khỏi nước ta.
+ Những hàng hoá là quà biếu, đồ dùng khác của dân cư thường trú nước
ta gửi cho thân nhân, các tổ chức, huặc người nước ngoài khác.
+ Những hàng hoá là viện trợ, giúp đỡ của chính phủ, các tổ chức và dân
cư thường trú nước ta gửi cho chính phủ, các tổ chức, dân cư nước ngoài.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 4
1.2 / Hiệu quả xuất khẩu
Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước luôn coi trọng
lĩnh vực này và nhấn mạnh “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh
hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại”. Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế xuất khẩu
là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và cuả mỗi doanh
nghiệp nói riêng.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, là
phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động xuất khẩu. Tuy vậy
hiệu quả đó là gì? như thế nào là có hiệu quả? Không phải là vấn đề đã được
thống nhất. Không thể đánh giá được mức độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt
động xuất khẩu khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và
những biểu hiện của nó. Vì vậy, hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất
khẩu cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là
vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về
bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở để xác định các tiêu
chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định yêu cầu đối với
việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại thương.
Cho đến nay còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về hiệu quả kinh
doanh nói chung và hiệu quả xuất khẩu nói riêng. Quan niệm phổ biến là hiệu
quả kinh tế xuất khẩu là kết quả của quá trình sản xuất trong nước, nó được biểu
hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Trong thực tiễn
cũng có người cho rằng hiệu quả kinh tế xuất khẩu chính là số lợi nhuận thu
được thông qua xuất khẩu. Những quan niệm trên bộc lộ một số mặt chưa hợp
lý.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 5
Một là, đồng nhất hiệu quả và kết quả. Hai là, không phân định rõ bản
chất và tiêu chuẩn hiệu quả xuất khẩu với các chỉ tiêu biểu hiện bản chất và tiêu
chuẩn đó.
Cần phân biệt rõ khái niệm “kết quả” và “hiệu quả”. Về hình thức hiệu
quả kinh tế là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra
và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu
quả. Tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó tạo ra ở mức nào và với chi phí
là bao nhiêu.
Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói riêng là
phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất kỳ mà phải là
kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết quả có được ở mức
độ nào với giá nào đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt
động tạo ra kết qủa. Vì vậy, đánh giá hoạt động kinh tế xuất khẩu không chỉ là
đánh giá kết quả mà còn là đánh giá chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả
đó. Vấn đề không phải chỉ là chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng
hoá mà còn là với chi phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy.
Mục đích hay bản chất của hoạt động xuất khẩu là với chi phí xuất khẩu nhất
định có thể thu được lợi nhuận lớn nhất. Chính mục đích đó nảy sinh vấn đề
phải xem lựa chọn cách nào để đạt được kết quả lớn nhất.
Từ cách nhìn nhận trên ta thấy các chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất khẩu,
tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu chỉ là những chỉ tiêu thể hiện kết quả của hoạt
động xuất khẩu chứ không thể coi là hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu
được, nó chưa thể hiện kết quả đó được tạo ra với chi phí nào
Nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn rất trìu tượng và chưa chính xác. Điều cốt
lõi là chi phí cái gì, bao nhiêu và kết quả được thể hiện như thế nào. Trong hoạt
động xuất khẩu, kết quả đầu ra thể hiện bằng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu
Hiệu quả kinh tế =
Kết quả đầu
ra
Chi phí đầu
v o
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 6
đem lại và chi phí đầu vào là toàn bộ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra nhưng có
liên quan đến hoạt động xuất khẩu bao gồm chi phí mua huặc chi phí sản xuất
gia công hàng xuất khẩu, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí sơ chế,
tái chế hàng xuất khẩu và những chi phí trực tiếp huặc gián tiếp khác gắn với
hợp đồng xuất khẩu. Từ những nhận xét trên ta có công thức tính hiệu quả xuất
khẩu như sau:
2/ Các phương thức kinh doanh xuất khẩu
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham
gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước
ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các doanh nghiệp tiến
hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có quyền tìm kiếm
bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán và thị trường, xác
định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu
của nhà nước.
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham
gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm phán với nước
ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín thực hiện hoạt động xuất
khẩu cho mình.
Đặc điểm hoạt động xuất khẩu uỷ thác là có hai bên tham gia trong hoạt
động xuất khẩu:
Hiệu quả xuất
kh u
Doanh thu
ngoại tệ do
xu tkh u đem
Chi phí liên
quan đến
=
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 7
+ Bên giao uỷ thác xuất khẩu (bên uỷ thác): bên uỷ thác là bên có đủ điều
kiện bán hàng xuất khẩu.
+ Bên nhận uỷ thác xuất khẩu (bên nhận uỷ thác): bên nhận uỷ thác xuất
khẩu là bên đứng ra thay mặt bên uỷ thác ký kết hợp đồng với bên nước ngoài.
Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ thác và chịu sự điều chỉnh
của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận uỷ thác sau khi ký kết hợp đồng uỷ
thác xuất khẩu sẽ đóng vai trò là một bên của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Do vậy, bên nhận uỷ thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý của
luật kinh doanh trong nước, luật kinh doanh của bên đối tác và luật buôn bán
quốc tế.
Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp giao uỷ
thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác lại giữ
vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự thoả thuận giữa hai
bên ký trong hợp đồng uỷ thác.
* Xuất khẩu theo hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu theo hiệp định của nhà nước ký
kết với nước ngoài. Các doanh nghiệp thay mặt nhà nước ký các hợp đồng cụ
thể và thực hiện các hợp đồng đó với nước bạn.
*Xuất khẩu ngoài hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu không nằm trong hiệp định của
nhà nước phân bổ cho doanh nghiệp.
3/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao
giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh
doanh nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục phức tạp để xuất khẩu
hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 8
chỉ xác định khi hàng hoá đã luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện
xong một thương vụ ngoại thương.
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu:
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất khẩu
chủ yếu những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả tươi, hàng
mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ …
Thời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán:
Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng không
trùng nhau mà có khoảng cách dài.
Phương thức thanh toán:
Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể áp
dụng được tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là phương
thức thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh toán đảm bảo được
quyền lợi của nhà xuất khẩu.
Tập quán, pháp luật:
Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán
kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập quán
kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
1/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công Nghiệp
Hoá đất nước.
Đất nước ta đang từng bước tiến tới Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất
nước. Đây là một nhiệm vụ cần thiết đáp ứng yêu cầu của Đảng ta là đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu từng bước phát triển nền kinh tế ngày một
bền vững ổn định, xoá dần khoảng cách về kinh tế giữa nước ta và các nước trên
thế giới.
Nhìn chung các ngành sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng được
yêu cầu của quá trình hiện đại hoá chính vì vậy mà chúng ta cần thiết phải nhập
khẩu một số trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào Việt
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 9
Nam. Nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn
sau:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ Kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ
+ Vay nợ, nhận viện trợ
+ Xuất khẩu hàng hoá
Các nguồn vốn ngoại tệ như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ, kinh
doanh dịch vụ thu ngoại tệ không đóng góp nhiều lắm vào việc tăng thu ngoại
tệ, chỉ có xuất khẩu hàng hoá là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất nước, nguồn thu
này dùng để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hóa và
trang trải những chi phí cần thiết khác cho quá trình này, xuất khẩu không
những nâng cao được uy tín xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước mà còn
phản ánh năng lực sản xuất hiện đại của chính nước đó.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu
tư, vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu
tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả
nợ – trở thành hiện thực. Điều này càng nói lên vai trò vô cùng quan trọng của
xuất khẩu.
2/ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công Nghiệp Hoá phù hợp
với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai
cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá
tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế nước ta còn quá lạc hậu và
chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 10
động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng
trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm.
Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để
tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát
triển. Khi chúng ta xuất khẩu một mặt hàng nào đó kéo theo đó là sự phát triển
các ngành khác phục vụ cho việc xuất khẩu mặt hàng này. Chẳng hạn khi xuất
khẩu các sản phẩm dệt may thì ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc
nhuộm cũng sẽ phát triển theo quy mô xuất khẩu sản phẩm may. Chính điều này
làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa
các ngành với nhau. Như vậy xuất khẩu đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế
phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho
sản xuất phát triển và ổn định.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao khả
năng chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác mở rộng thị
trường xuất khẩu là giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa khi thị trường này
có sự biến động ảnh hưởng không tốt đến việc kinh doanh của doanh nghiệp và
tăng khả năng thoả mãn nhu cầu cho người tiêu dùng.
Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ hàng
hoá lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi doanh
nghiệp đều luôn cố gắng thoả mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng doanh thu đạt lợi
nhuận cao nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, doanh nghiệp phải chịu
sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp khác. Trong điều kiện như vậy doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng
bằng cách nhập các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 11
sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Như vậy
xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại hơn và ổn định hơn.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu
là điều kiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào Việt
Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu chính là việc hàng hoá được tiêu dùng ở nước ngoài, chịu sự
cạnh tranh về giá cả, chất lượng.
Doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng trên thị trường thì phải có kế hoạch
sản xuất kinh doanh sao cho có thể tận dụng hết mọi năng lực sản xuất hiện có
để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu
dùng về tính năng công dụng của sản phẩm càng nhiều càng tốt nhưng lại phải
có mức giá cả hợp lý để vừa có thể cạnh tranh về giá với các doanh nghiệp khác
vừa mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp
luôn cố gắng để sản xuất có hiệu quả tăng cường đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng có nghĩa là nền kinh tế cũng ngày
một đi lên, như vậy xuất khẩu không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà
còn làm cho nền kinh tế ngày một phát triển và ổn định.
3/ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống của người dân.
Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành phố
kiếm việc làm đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý của nhà nước
thêm khó khăn. Nó cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là những người dân ở các
vùng nông thôn đang thiếu việc làm một cách trầm trọng. Xuất khẩu đã giải
quyết được vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và cải
thiện đời sống của dân cư. Đồng thời xuất khẩu cũng đóng góp vào ngân sách
quốc gia một nguồn vốn ngoại tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu
LuËn v¨n tèt nghiÖp
SV: TrÇn ViÖt Linh - K36 D5 12
các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của người dân.
4/ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động
qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có sớm hơn hoạt
động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc
tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng
xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
LuËn v¨n tèt n