Đề tài Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu

Theo số liệu thống kê năm 2007 của Tổng cục Thống kê, kinh tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam: đóng góp hơn 40% tổng thu ngân sách; tạo việc làm cho 9% tổng số lao động. Thế nhưng, theo xếp loại doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính, trong tổng số doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng, thì chỉ có 44,4% xếp loại A, 39,5% xếp loại B, 16,1% xếp loại C; 19,5% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Thực tế cũng cho thấy, đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn dàn trải, chưa tập trung vào những lĩnh vực quan trọng, chiến lược mà Nhà nước cần chi phối. Mặt khác, công tác quản lý vốn còn nhiều đầu mối với nhiều cơ chế khác nhau, dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn nhà nước chưa cao. Thực trạng sử dụng vốn nhà nước chưa hiệu quả. Việc quản lý chồng chéo, khó phân xử trách nhiệm đối với hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ những vấn đề trên hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước càng được đặt ra gay gắt. Trong thời gian gần đây, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, tham luận cũng như hội thảo đã đánh giá thực trạng quản lý vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước, đã đưa ra các giải pháp để công tác quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn, quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước còn được ít nghiên cứu một cách toàn diện. Do tính cấp thiết về cả lý luận và thực tiễn của vấn trên, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu” làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học.

doc103 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Theo số liệu thống kê năm 2007 của Tổng cục Thống kê, kinh tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam: đóng góp hơn 40% tổng thu ngân sách; tạo việc làm cho 9% tổng số lao động. Thế nhưng, theo xếp loại doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính, trong tổng số doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng, thì chỉ có 44,4% xếp loại A, 39,5% xếp loại B, 16,1% xếp loại C; 19,5% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Thực tế cũng cho thấy, đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn dàn trải, chưa tập trung vào những lĩnh vực quan trọng, chiến lược mà Nhà nước cần chi phối. Mặt khác, công tác quản lý vốn còn nhiều đầu mối với nhiều cơ chế khác nhau, dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn nhà nước chưa cao. Thực trạng sử dụng vốn nhà nước chưa hiệu quả. Việc quản lý chồng chéo, khó phân xử trách nhiệm đối với hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ những vấn đề trên hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước càng được đặt ra gay gắt. Trong thời gian gần đây, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, tham luận cũng như hội thảo đã đánh giá thực trạng quản lý vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước, đã đưa ra các giải pháp để công tác quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn, quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước còn được ít nghiên cứu một cách toàn diện. Do tính cấp thiết về cả lý luận và thực tiễn của vấn trên, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu” làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học. 2. Mục đích, nhiệm vụ - Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Làm rõ thực trạng các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Nghiên cứu về đặc điểm doanh nghiệp có vốn nhà nước và quản lý nhà nước đối với loại doanh nghiệp này với tư cách chủ sở hữu. + Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước, rút ra những vấn đề tồn tại cần hoàn thiện, đặc biệt là những bất cập trong quản lý nhà nước. + Đề ra một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước với tư cách chủ sở hữu trong thời gian tới ở nước ta. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước ở nước ta hiện nay - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các chủ trương, chính sách cũng như các giải pháp tầm vĩ mô về quản lý nhà nước, không đi vào nghiên cứu cụ thể quản trị trong nội bộ doanh nghiệp. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta, đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu chủ yếu là: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, khảo sát, phân tích tổng hợp, phân tích thống kê…Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài có khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm đối chiếu so sánh, tìm ra những giải pháp tối ưu cho vấn đề nghiên cứu. 5. Những đóng góp của đề tài luận văn Đề tài nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và hệ thống cơ sở lý luận về doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này, đồng thời, đánh giá, phân tích thực trạng hệ thống doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, đề xuất các luận cứ khoa học, các quan điểm phương hướng và đưa ra hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước ở nước ta, phù hợp với tiến trình của đất nước, đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QLNN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU 1.1 Tổng quan Doanh nghiệp Việt Nam Thập niên 1980. Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986, để cứu đất nước khỏi rơi vào khủng hoảng triền miên và ngày càng trầm trọng hơn, buộc phải chuyển đổi mô hình kinh tế tổng quát. Mô hình kinh tế mới mà chúng ta lựa chọn là: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy chúng ta vẫn còn đề cập đến chủ nghĩa xã hội, song, đó chỉ là định hướng cho tương lai, một tương lai còn khá xa, cái chính, cái trước hết vẫn là nền kinh tế thị trường. Trên thực tế, chúng ta cũng đã cố gắng tạo dựng cho đất nước một nền kinh tế thị trường thực thụ. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; việc giao ruộng đất cho hộ gia đình nông dân sử dụng ổn định và lâu dài với 7 quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp vốn để kinh doanh); việc nỗ lực hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế (Thị trường vật tư-hàng hoá, thị trường tài chính-tiền tệ; thị trường khoa học - công nghệ; thị trường lao động, thị trường đất đai - bất động sản), cũng như việc nỗ lực cải cách thể chế kinh tế, làm cho thể chế kinh tế của chúng ta ngày càng phù hợp hơn với thế giới, v.v.... Để thúc đẩy chuyển đổi kinh tế chúng ta đã hình thành thừa nhận sự tồn tại đồng thời, song song hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước với têu biểu là các doanh nghiệp, nhà máy, công ty nhà nước có sự tích tụ và huy động tư bản nhà nước (nhằm khắc phục những nhược điểm của kinh tế thị trường). Việc đổi mới nền kinh tế và tạo ra tổ chức gọi là “doanh nghiệp” đó là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường do doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là một bộ phận cấu thành nền kinh tế và chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo... Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Có thể nói vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động của DN sẽ được phân tích ở phần sau. Chính vì vậy để đổi mới và phát triển nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ban hành đồng bộ, đầy đủ, hoàn thiện hệ thống pháp lý (lập pháp, hành pháp, tư pháp...) giúp từng bước đổi mới và phát triển kinh tế thị trường như: 1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế hóa chính thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân. Bắt đầu có chủ trương thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Tháng 5 năm 1990: Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh ngân hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp. 1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc tế. 2000: Luật Doanh nghiệp ra đời. 2001: Ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2002: Tự do hóa lãi suất cho vay VND cho các tổ chức tín dụng. 2005: Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực. 2006: Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận cho đảng viên làm kinh tế tư nhân. 7/11/2006: Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới. Mặc dù vậy, doanh nghiệp Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều yếu kém như các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chủ thể chính của nền kinh tế thị trường của nước ta, số lượng còn ít, quy mô còn nhỏ bé, năng lực mọi mặt, đặc biệt là việc tham gia hội nhập với quốc tế còn rất hạn chế. Hệ thống các loại thị trường: Thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai-bất động sản ở nước ta đang trong quá trình hình thành, vì thế nó còn rất sơ khai, yếu ớt và hoạt động chưa theo quy luật của kinh tế thị trường. Chính điều này làm hạn chế, chậm quá trình đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách sâu rộng, triệt để. 1.1.1.Khái niệm về doanh nghiệp Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kỳ một quốc gia nào, doanh nghiệp cũng là một đơn vị cơ sở, một tế bào của cả nền kinh tế, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi trực tiếp phối hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ một cách có hiệu quả nhất. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thông tin, các hình thức tổ chức doanh nghiệp ngày càng đa dạng, các loại sở hữu doanh nghiệp ngày càng phong phú. Do đó nếu đứng trên các quan điểm khác nhau thì có các định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp. 1. Theo quan điểm của nhà tổ chức: Doanh nghiệp là tổng thể các phương tiện, máy móc, thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt được một mục đích. 2. Theo quan điểm mục tiêu cơ bản cho mọi hoạt động của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong khuôn khổ một số tài sản nhất định người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường nhằm thu về một khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm. 3. Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực hiện các nhiệm vụ nhằm mục đích sinh lãi. 4. Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội. Mỗi định nghĩa nêu trên đều được phát biểu dựa trên các quan điểm khác nhau, nếu tổng hợp các định nghĩa của các quan điểm khác nhau đó khái niệm về doanh nghiệp sẽ toàn diện hơn . Định nghĩa: - Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận, trên cơ sở tôn trọng pháp luật nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. -Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học. Doanh nghiệp như một cái áo khoác (phương tiện) để thực hiện ý tưởng kinh doanh. Muốn kinh doanh, thương nhân phải chọn lấy cho mình một trong số những loại hình mà pháp luật quy định. - Doanh nghiệp về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. " . Về thực chất doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Từ định nghĩa trên, có thể rút ra đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp như sau: Chức năng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là 2 chức năng không thể tách rời nhau, ngược lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một chu trình khép kín trong hoạt động của doanh nghiệp. Tối đa hóa tiêu dùng là mục tiêu kinh tế cơ bản của doanh nghiệp, tuy nhiên đi kèm mục tiêu kinh tế, hoạt động của doanh nghiệp còn hướng tới những mục tiêu xã hội nhất định. Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược sản xuất kinh doanh thích ứng cũng như phải có công cụ, giải pháp phù hợp để thực hiện chiến lược đó. 1.1.2.Phân loại doanh nghiệp Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp: Thứ nhất, dưới góc độ các thành phần kinh tế doanh nghiệp được chia thành: Doanh nghiệp nhà nước; Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, căn cứ vào trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp trách nhiệm vô hạn. Thứ ba, căn cứ vào cơ cấu chủ sở hữu và phương thức góp vốn vào doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp một chủ sở hữu (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) và doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu (công ty cổ phần, công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty hợp danh). Thứ tư, căn cứ vào loại hình tổ chức và hoạt động, doanh nghiệp được chia thành: Công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Công ty cổ phần có vốn nhà nước là Doanh nghiệp chung vốn góp mà nhà nước là một thành viên cổ đông, góp vốn từ nguồn ngân sách nhà nước, các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty, như vậy trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong công ty là trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình được gọi chung là Doanh nghiệp cổ phần có vốn sở hữu nhà nước (DN CP VSHNN). Nhà nước góp vốn cùng với các chủ nhân khác để thành lập DNVSHNN với nhiều mức độ góp vốn khác nhau, nhiều đối tác khác nhau tùy theo nhu cầu tình hình phát triển kinh tế- chính trị- xã hội trong dài hạn mà Nhà nước thành lập góp vốn, do đó có nhiều loại Doanh nghiệp có vốn góp sở hữu Nhà nước được thành lập như sau: - Căn cứ vào tỷ lệ vốn nhà nước mà người ta chia thành DNVSHNN có cổ phần chi phối của nhà nước (trên 50% và dưới 50% nhưng ở thế vượt trội) và DNVSHNN mà Nhà nước chỉ là một cổ đông bình thường. 1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn nhà nước trong nền kinh tế quốc dân Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo... Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Vai trò DNVSHNN đối với nền kinh tế của như sau: Thứ nhất, là công cụ của nhà nước để nhà nước thực hiện quản lý trên vĩ mô nền kinh tế. Thứ hai, thu hút, tích tụ và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn. Ở thời kỳ đầu thế giới phẳng đều thiếu vốn trầm trọng cho đầu tư kỹ thuật, đổi mới công nghệ là đầu mối, đối tác quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài và các tập đoàn lớn trên thế giới, tiếp nhận các nguồn vốn để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường trong nước và dần dần cho thị truờng quốc tế. Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội. Sự đa dạng và linh hoạt trong quá trình hoạt động của các DN góp phần làm cho cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch sang sản phẩm có giá trị cao. Cơ cấu ngành nghề thay đổi đáng kể từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Thứ tư, ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ. Việc ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật được đặc biệt chú trọng. Thứ năm, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tập đoàn chỉ có thể thành công khi có đội ngũ các nhà quản lý giỏi, đội ngũ công nhân lành nghề, vì chỉ có họ mới có khả năng tiếp thu, vận dụng, sáng tạo các tiến bộ khoa học công nghệ để đưa ra thị trường các sản phẩm, các dịch vụ đủ sức cạnh tranh. DN VSHNN đóng góp rất lớn vào quá trình hình thành đội ngũ các nhà quản lý, các cán bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng, đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Thứ năm, thúc đẩy hội nhập kinh tế. Bên cạnh việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, còn đóng vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế. Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ra nước ngoài mang lại lợi ích cho các nền kinh tế trên toàn cầu. Hoạt động thương mại, đầu tư của thế giới làm tăng tính phụ thuộc và gắn kết lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia và các vùng lãnh thổ. 1.1.4. Phương thức tác động vào nền kinh tế quốc dân của nhà nước thông qua DNVSHNN Doanh nghiệp là thành phần cơ bản chủ yếu tạo ra (GDP) và là một trong những thước đo sức khỏe nền kinh tế quốc dân. Nhà nước muốn các doanh nghiệp này thực hiện các chương trình, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tuân thủ pháp luật… Nhưng nhiều khi mong muốn của Nhà nước không dễ thực hiện bằng những công cụ cưỡng chế, hình sự hay hành chính, cũng như không thể thực hiện ngay bằng các công cụ tuyên truyền, thuyết phục mà chỉ thực hiện được bằng cách lập ra các DNVSHNN. Chính những DNVSHNN này giúp cho Nhà nước thực hiện được các mong muốn của mình bằng các cách sau: Cách tác động trực tiếp cách 1. Nhà nước can thiệp trực tiếp và đối tượng doanh nghiệp thông qua người đại diện, nguồn vốn, quy định chế tài về chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoat động của doanh nghiệp. Để làm được điều này nhà nước cần phải thực hiện nắm được những công việc sau: - Nhà nước nhìn nhận rõ các mong muốn của mình một cách có hệ thống đối với hệ thống doanh nghiệp nói chung, đồng thời đặt ra những mong muốn cụ thể đối với từng doanh nghiệp lớn hoặc nhóm doanh nghiệp cùng loại - Căn cứ vào các kết quả xác định được về các đơn vị sản xuất kinh doanh nơi mà Nhà nước đặt những mong muốn, Nhà nước quyết định đưa vốn nhà nước vào, mức vốn này đủ để Nhà nước gây ảnh hưởng đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp này phải thực hiện những mong muốn của Nhà nước. - Nhà nước cử người đại diện cho Nhà nước trong việc làm chủ số vốn góp với tư cách cổ đông. Người đại diện được trao nhiệm vụ và được trang bị kiến thức để họ có khả năng sử dụng quyền cổ đông của mình trong việc làm cho doanh nghiệp thực hiện những mong muốn của Nhà nước. - Nhà nước thường xuyên giám sát, hỗ trợ người đại diện vốn để họ có thể làm tròn nhiệm vụ của mình. Để thực hiện quản lý đối với các DNVSHNN ngoài những phương thức chung về quản lý hành chính Nhà nứơc, nhà nứơc trực tiếp dùng các phương thức chủ yếu đựơc thể hiện qua sơ đồ sau: Nhà nước Các Doanh nghiệp có sở hữu vốn Nhà nước Thị Trường (2)Cách tác động gián tiếp (1)cách tác động trực tiếp Cách tác động gi
Luận văn liên quan