Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã từng nhấn mạnh “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội” [24, t.8, tr. 279].
Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, đối với cơ sở việc thực hành dân chủ rộng rãi có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Chỉ thị đã xác định: ". để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất’’.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Và sự kiện quan trọng nhất nhất, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đối với hệ thống chính trị - xã hội nước ta, đó là Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 (2007), đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước quan trọng việc thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Thực hành dân chủ ở cơ sở là việc đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp cho người dân ở nơi cư trú, cơ quan và đơn vị công tác. Tuy nhiên có thể thấy rằng việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, tức là đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp của người dân ở nơi cư trú (cấp cơ sở trong hệ thống các cấp quản lý hành chính Nhà nước) có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong việc giữ vững niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước, trong việc giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Vì đó là địa bàn sinh sống, lao động và sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc hằng ngày giữa nhân dân và chính quyền, là nơi thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, đồng thời là nơi đảm bảo nhu cầu được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở của nhân dân, cũng là nơi nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cơ sở.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở luôn là vấn đề mang tính thời sự và đòi hỏi phát triển không ngừng, đầy tính sáng tạo. Vì thế, chúng ta vừa phải đi sâu nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về lý luận, vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp để đưa QCDC vào cuộc sống. Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở cấp xã, cho đến nay chúng ta đã triển khai thực hiện rộng khắp trong cả nước và đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
“Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy về thực hiện QCDC cho một số loại hình cơ sở; các cơ quan, đơn vị, cơ sở đã tích cực xây dựng quy chế, quy định; thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước thực hiện dân chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện QCDC cơ sở được gắn với phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ thục hành chính, cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào, các hoạt động văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả. Dân chủ và thực hành dân chủ XHCN ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân dân tiếp tục được coi trọng, tăng cường.
Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các Đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [15].
Tuy nhiên, những kết quả đạt được nêu trên mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém trong triển khai thực hiện: “Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cơ sở dịch vụ ngoài công lập và một số doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; thiếu công khai, dân chủ về sản xuất, kinh doanh, tiền lương, tiền thưởng và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ, chính quyền” [15]. Đây là những thành tựu, hạn chế chung được tổng kết và rút ra sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị.
Bắc Ninh, một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía Đông nam và Nam tiếp giáp với tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía Tây và Tây bắc tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Đây cũng là vùng đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng. Ngay từ năm 1926 những thanh niên, học sinh và trí thức yêu nước của Bắc Ninh với tố chất thông minh đã sớm tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin vào địa phương, tiêu biểu như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt và đã trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Từ xa xưa nhân dân Bắc Ninh đã sớm chủ ý đến sản xuất vật phẩm tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp. Hệ thống làng nghề xuất hiện sớm, các sản phẩm của làng nghề phong phú đa dạng (đúc đồng, đồ sắt, đồ gốm, dệt lụa.). Do thương mại phát triển nên hoạt động buôn bán ở Bắc Ninh cũng khá sôi nổi; nhiều làng buôn đã xuất hiện, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu thông cuả hàng hóa ở các làng nghề (các làng buôn như Phù Lưu, Đình Bảng - Từ Sơn; Xuân Cầu, Đa Ngưu). Tuy nhiên, dù làm ruộng, làm nghề thủ công hay buôn bán, từ thượng cổ cho đến ngày nay, nhân dân Bắc Ninh vẫn sống gắn bó cùng nhau với mô hình cộng đồng làng xóm. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và phân tích để đưa ra các kết luận giải pháp hoàn thiện có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một địa phương điển hình và trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
131 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2382 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã từng nhấn mạnh “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội” [24, t.8, tr. 279].
Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, đối với cơ sở việc thực hành dân chủ rộng rãi có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Chỉ thị đã xác định: "... để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất’’.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, để cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Và sự kiện quan trọng nhất nhất, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đối với hệ thống chính trị - xã hội nước ta, đó là Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 (2007), đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước quan trọng việc thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Thực hành dân chủ ở cơ sở là việc đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp cho người dân ở nơi cư trú, cơ quan và đơn vị công tác. Tuy nhiên có thể thấy rằng việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, tức là đảm bảo quyền làm chủ trực tiếp của người dân ở nơi cư trú (cấp cơ sở trong hệ thống các cấp quản lý hành chính Nhà nước) có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong việc giữ vững niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước, trong việc giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Vì đó là địa bàn sinh sống, lao động và sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc hằng ngày giữa nhân dân và chính quyền, là nơi thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, đồng thời là nơi đảm bảo nhu cầu được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở của nhân dân, cũng là nơi nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cơ sở.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở luôn là vấn đề mang tính thời sự và đòi hỏi phát triển không ngừng, đầy tính sáng tạo. Vì thế, chúng ta vừa phải đi sâu nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về lý luận, vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp để đưa QCDC vào cuộc sống. Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở cấp xã, cho đến nay chúng ta đã triển khai thực hiện rộng khắp trong cả nước và đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
“Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy về thực hiện QCDC cho một số loại hình cơ sở; các cơ quan, đơn vị, cơ sở đã tích cực xây dựng quy chế, quy định; thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước thực hiện dân chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện QCDC cơ sở được gắn với phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ thục hành chính, cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào, các hoạt động văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở. Nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả. Dân chủ và thực hành dân chủ XHCN ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân dân tiếp tục được coi trọng, tăng cường.
Xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các Đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [15].
Tuy nhiên, những kết quả đạt được nêu trên mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém trong triển khai thực hiện: “Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cơ sở dịch vụ ngoài công lập và một số doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; thiếu công khai, dân chủ về sản xuất, kinh doanh, tiền lương, tiền thưởng và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp uỷ, chính quyền” [15]. Đây là những thành tựu, hạn chế chung được tổng kết và rút ra sau 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị.
Bắc Ninh, một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía Đông nam và Nam tiếp giáp với tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía Tây và Tây bắc tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Đây cũng là vùng đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng. Ngay từ năm 1926 những thanh niên, học sinh và trí thức yêu nước của Bắc Ninh với tố chất thông minh đã sớm tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mac - Lênin vào địa phương, tiêu biểu như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt…và đã trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Từ xa xưa nhân dân Bắc Ninh đã sớm chủ ý đến sản xuất vật phẩm tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp. Hệ thống làng nghề xuất hiện sớm, các sản phẩm của làng nghề phong phú đa dạng (đúc đồng, đồ sắt, đồ gốm, dệt lụa..). Do thương mại phát triển nên hoạt động buôn bán ở Bắc Ninh cũng khá sôi nổi; nhiều làng buôn đã xuất hiện, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu thông cuả hàng hóa ở các làng nghề (các làng buôn như Phù Lưu, Đình Bảng - Từ Sơn; Xuân Cầu, Đa Ngưu). Tuy nhiên, dù làm ruộng, làm nghề thủ công hay buôn bán, từ thượng cổ cho đến ngày nay, nhân dân Bắc Ninh vẫn sống gắn bó cùng nhau với mô hình cộng đồng làng xóm. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và phân tích để đưa ra các kết luận giải pháp hoàn thiện có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một địa phương điển hình và trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị, tỉnh Bắc Ninh đã đạt được một số kết quả sau:
“Việc xây dựng và thực hiện QCDC trên địa bàn được triển khai chặt chẽ, đồng bộ trong tất cả các loại hình cơ sở. Hầu hết các quy định trong quy chế được các địa phương, cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc, đạt nhiều kết quả; thực hiện QCDC đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, phương thức lãnh đạo, điều hành của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ và đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới theo hướng: Trọng dân, gần dân, học dân và có trách nhiệm với dân; tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị được nâng lên rõ rệt…” [45].
Bên cạnh những thành tựu đạt được trên đây, việc thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh còn bộc lộ một số yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện: “Việc tuyên truyền, triển khai, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một số địa phương, đơn vị chưa thường xuyên, chưa sâu rộng, chưa tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; một số nơi việc tổ chức thực hiện chưa kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; việc thực hiện thông báo công khai, tổ chức cho nhân dân bàn còn hạn chế, hình thức, nhất là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến dân, đã dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp…” [45].
Là một cán bộ đang công tác trong bộ máy công quyền của nhà nước (UBND huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh), tác giả nhận thấy rõ ràng và trực tiếp vị trí và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; nơi gần dân nhất, nơi trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của những người làm chủ đất nước, những người như Nguyễn Trãi đã nói “Chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Từ việc xác định vị trí và tầm quan trọng đó, tác giả tìm hiểu và phát hiện ra những bất cập trong việc triển khai tổ chức, thực hiện. Những bất cập liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của bộ máy chính quyền; những bất cập liên quan đến trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức; những bất cập liên quan đến sự nhận thức của người dân…
Vậy, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, đồng thời giúp người dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở xã, phường, thị trấn đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến một số nội dung: nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng Nhà nước XHCN;() Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Lại Quốc Khánh, “Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ góc nhìn triết học”, Tạp chí cộng sản, (số 23/2010)); nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu bật tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ (Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Bạch Đằng, "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (số 35, 12/2003); Vũ Văn Hiền (2004), Quy chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội)
nghiên cứu việc thực hiện dân chủ cơ sở và một số giải pháp trong quá trình triển khai thực hiện;() Nguyễn Thu Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Chí Mỳ, “Dân chủ cơ sở - sự sáng tạo của Đảng ta”, Tạp chí Cộng sản, (số 95, 205); Trần Quang Nhiếp, “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (số 2/1999));
nghiên cứu về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng chính quyền ở cơ sở;() Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu, "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền cơ sở nông thôn", Tạp chí Lý luận chính trị, (số 11/2002); Trịnh Ngọc Anh, "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh", Tạp chí Cộng sản,(số 11, 4/2003
… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải pháp trong quá trình triển khai và thực hiện.
Trong mấy năm gần đây, có một số ít đề tài tập trung nghiên cứu riêng ở địa bàn cấp Tỉnh, Huyện về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải pháp trong quá trình triển khai, thực hiện.() Bùi Thị Hạnh (2009), Thực hiện dân chủ cơ sở tại tỉnh Bắc Giang - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành quản lý hành chính công, mã số 603482, Học viện HCQG.
Nhưng các công trình nghiên cứu nói trên chưa thật sự chú trọng vào việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; chưa nêu bật được vai trò và tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện một cách hiệu quả dân chủ ở cơ sở, dân chủ ở xã, phường, thị trấn; người nghiên cứu chưa thực sự đi sâu và tìm hiểu trực tiếp từ những người dân cho nên các giải pháp đưa ra hầu như chỉ trên lý thuyết, chung chung, thiếu thực tế. Đây chính là lý do để tác giả tiếp tục đi sâu, nghiên cứu các vấn đề về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; tìm kiếm và đưa ra giải pháp thiết thực giúp cho việc “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” nói riêng và trong phạm vi cả nước.
3. Giả thuyết nghiên cứu của luận văn
Trong chế độ XHCN, dân chủ chính là sự tham gia rộng rãi của người dân vào các công việc của nhà nước, mà địa bàn sinh sống, lao động và sản xuất của người dân đó chính là xã, phường, thị trấn.
Xã, phường, thị trấn gọi chung là cơ sở (căn cứ vào không gian quản lý của Nhà nước) là nền tảng tạo dựng nên một xã hội nhất định. Cơ sở chính là thực tiễn cuộc sống, vừa là điểm xuất phát của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vừa là nơi triển khai thực hiện, kiểm định và bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và cũng là nơi để đánh giá, thẩm định hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Vì vậy, dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn là nền tảng của nền dân chủ XHCN.
Do đó, nếu dân chủ ở cơ sở nói chung và dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng không được triển khai thực hiện, hoặc tuy được thực hiện nhưng không đúng yêu cầu của nhà nước, của xã hội, của nhân dân, hoặc việc thực hiện không đem lại hiệu quả thực tế thì đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hách dịch, cửa quyền, tham nhũng… và điều quan trọng hơn là sẽ tạo ra phản ứng trái chiều đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong nhân dân từ đó làm cho nhân dân mất niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, kìm hãm sự phát triển chung của đất nước và cuối cùng sẽ làm mất đi bản chất của Nhà nước XHCN (bản chất dân chủ), mà khi một nhà nước đã đánh mất bản chất của mình thì nhà nước đó không còn tồn tại.
Vì vậy, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, sẽ đem lại quyền dân chủ trực tiếp cho người dân. Hơn nữa, nhân dân là người chủ của đất nước, nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay mặt mình xây dựng pháp luật và quản lý đất nước, thực hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, việc bảo đảm cho nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của mình ở cơ sở là điều kiện và tiền đề để xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, xây dựng một chính quyền của dân, do dân và vì dân. Trên tinh thần đó, Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của đất nước ta” [9] và “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân” [10].
Trên phương diện chính trị - pháp lý, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, chống quan liêu, cửa quyền, chuyên quyền, chống tham ô, lãng phí, bè phái, cơ hội..., góp phần ổn định và lành mạnh đời sống xã hội. Đặc biệt hơn, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng, gìn giữ và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả tập trung làm rõ quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh bắc Ninh những năm tiếp theo.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa những lý luận chung về dân chủ, tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở và đặc biệt là xã, phường, thị trấn ở Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá một cách khoa học việc tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ khi QCDC ở cơ sở ra đời (10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở và một số đánh giá cơ bản năm 2009, 2010), rút ra ưu, nhược điểm và vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn những năm tiếp theo.
- Rút ra kết luận và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở xã