Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương có một vai trò rất quan trọng trong việc thi hành các quy định của Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tổ chức, động viên nhân dân thực hiện pháp luật và đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Trên nhiều phương diện, các cấp chính quyền địa phương có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân.
12 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3200 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
** MỤC LỤC **
Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………. 1
I. Một số vấn đề cơ bản về văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa……... 1
phương ban hành
1. Khái niệm………………………………………………………………….. 1
2. Thẩm quyền và hình thức văn bản QPPL của cơ quan nhà nước ở……….. 2
địa phương
3. Nội dung văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành…… 2
4. Trình tự, thủ tục ban hành………………………………………………….. 3
5. Hiệu lực ban hành………………………………………………………….. 3
II. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà………. 4
nước ở địa phương hiện nay.
1. Những thành tựu đạt được………………………………………………….. 4
2. Những hạn chế……………………………………………………………… 5
3. Nguyên nhân của những hạn chế…………………………………………… 7
III. Một số giải pháp trong hoạt động ban hành văn bản QPPL của các……… 9
cơ quan nhà nước ở địa phương hiện nay.
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………… 10
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương có một vai trò rất quan trọng trong việc thi hành các quy định của Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tổ chức, động viên nhân dân thực hiện pháp luật và đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Trên nhiều phương diện, các cấp chính quyền địa phương có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Trực tiếp ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước và là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề cơ bản về văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành
1. Khái niệm
Văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành là những văn bản được ban hành theo trình tự, thủ tục do Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND quy định; đồng thời văn bản đó phải chứa đựng các quy tắc xử sự chung có hiệu lực trong phạm vi địa phương, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN.
2. Thẩm quyền và hình thức văn bản QPPL của cơ quan nhà nước ở địa phương
Để đảm bảo cho các quy định từ văn bản QPPL của các cơ quan Trung ương đi vào cuộc sống, có thể tác động trực tiếp đến quan hệ xã hội cần điều chỉnh, đồng thời để cho hoạt động của cơ quan nhà nước ở địa phương được thực hiện nhịp nhàng, thống nhất và có hiệu quả, Hiến pháp và pháp luật hiện hành quy định HĐND và UBND các cấp ở địa phương có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL. Thẩm quyền ban hành văn bản QPPL là giới hạn quyền lực của chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật. Theo Điều 120, 124 Hiến pháp 1992; Điều 10 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003; Điều 2, 21 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 và cụ thể là khoản 2 Điều 1 Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND năm 2004 quy định rõ: “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân được ban hành dưới hình thức nghị quyết. Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị”.
3. Nội dung văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành
Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 đã dành hẳn chương II quy định theo hướng có sự phân định rõ ràng, cụ thể về nội dung văn bản QPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo phân cấp đơn vị hành chính, gắn các nội dung của văn bản QPPL với từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Cụ thể như:
Theo Điều 12, 15 và 18 của Luật này, nghị quyết của HĐND được ban hành để quyết định chủ trương, chính sách, biện pháp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa…; thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo; thực thi pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương; xây dựng phát triển đô thị trên địa bàn theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND và các văn bản QPPL có liên quan của các cơ quan cấp trên.
Về nội dung của văn bản QPPL của UBND, Điều 13, 14, 16, 17, 19 và 20 của Luật này quy định rõ: quyết định của UBND được ban hành để thực hiện chủ trương, chính sách, biện pháp trong các lĩnh vực quan trọng như: kinh tế, nông nghiệp, giao thông vận tải…; thực thi pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính trên địa bàn theo quy định của luật Tổ chức HĐND và UBND và các văn bản QPPL khác có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên. Chỉ thị của UBND được ban hành để quy định biện pháp chỉ đạo, kiểm tta hoạt động của cơ quan, đơn vị trực thuộc…
4. Trình tự, thủ tục ban hành
Trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL là cách thức tiến hành các hoạt động được thực hiện kế tiếp nhau theo trình tự thời gian xác định từ thời điểm sáng kiến xây dựng pháp luật đến những hoạt động thông qua và công bố văn bản.Theo quy định của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND về trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương được tiến hành theo các bước: lập, thông qua và điều chỉnh chương trình xây dựng; soạn thảo văn bản QPPL; lấy ý kiến về dự thảo văn bản QPPL; thẩm định, thẩm tra dự thảo; xem xét thông qua dự thảo; và ban hành văn bản QPPL.
5. Hiệu lực ban hành
Hiệu lực về không gian của văn bản QPPL: Theo nguyên tắc chung, văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở địa phương cấp nào ban hành sẽ có hiệu lực trên phạm vi địa phương đó. Khoản 1 Điều 41 Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND quy định: “Văn bản quy phạm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính nào thì có hiệu lực trong phạm vi đơn vị hành chính đó”.
Hiệu lực về thời gian thể hiện ở thời điểm có hiệu lực và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản QPPL. Vấn đề này được quy định tương đối cụ thể, rõ ràng tại các Điều 51, 52 của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND.
Và hiệu lực theo đối tượng áp dụng: HĐND và UBND là những cơ quan nhà nước hoạt động trong phạm vi một lãnh thổ xác định, do vậy về nguyên tắc những đối tượng đang ở tại địa bàn thuộc quyền quản lý của cơ quan nào thì phải chịu sự quản lý của cơ quan đó. Nhìn chung đối tượng áp dụng văn bản QPPL của HĐND và UBND là những cá nhân, tổ chức. Vấn đề đặt ra là phải xác định những đối tương nào bắt buộc phải chịu tác động trực tiếp của văn bản QPPL ở địa phương.
II. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương hiện nay
1. Những thành tựu đạt được
Nhìn chung công tác ban hành văn bản QPPL của các cấp cơ quan nhà nước ở địa phương ngày càng được quan tâm và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều. Số lượng văn bản quy phạm do HĐND và UBND các cấp ban hành trong thời gian qua ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng. Những văn bản này đã góp phần tạo nên một hệ thống văn bản QPPL khá ổn định ở địa phương, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đánh giá một cách toàn diện, hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp cơ quan nhà nước ở địa phương hiện nay đạt được những thành tựu cơ bản sau đây:
- Trước hết, văn bản QPPL đã được kịp thời ban hành thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hướng dẫn, áp dụng các Luật, pháp lệnh và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND và UBND phù hợp với tình hình, đặc điểm và nhu cầu chính trị của địa phương.
- Chất lượng văn bản QPPL ngày càng được nâng cao, nhất là đối với các văn bản do HĐND và UBND cấp tỉnh ban hành. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chồng chéo với các văn bản QPPL khác…ở địa phương ngày càng giảm bớt và được chú ý khắc phục. Các văn bản đã ban hành về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về hình thức. Tình trạng văn bản QPPL ban hành bằng hình thức không do luật định, trái thẩm quyền, không có chữ ký của người có thẩm quyền, không có dấu, không vào sổ..ở nhiều địa phương về cơ bản đã được khắc phục một cách rõ rệt.
- Tại một số địa phương đã xây dựng được chương trình xây dựng văn bản QPPL hàng năm. Kế hoạch xây dựng văn bản QPPL đã trở thành cơ sở bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng văn bản QPPL, làm cho công tác này thực hiện có sự chủ động về thời gian, bố trí lực lượng phối hợp và kinh phí phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản. Do có chương trình xây dựng văn bản QPPL nên các địa phương đã chủ động trong công tác xây dựng và ban hành văn bản. Qua đó quản lý được kế hoạch, tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm cho hoạt động này phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương; khắc phục được tình trạng bị động, tùy tiện trong việc ban hành văn bản pháp luật; từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản…
- Ủy ban nhân dân một số tỉnh đã dần dần khẳng định vai trò và vị trí củ Sở tư pháp, các phòng tư pháp trong quá trình soạn thảo, tham gia soạn thảo và đặc biệt là trong việc thẩm định văn bản nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản QPPL trong hệ thống pháp luật. Về kỹ thuật soạn thảo văn bản, nhiều cơ quan tư pháp địa phương còn có ý kiến cả về mặt hợp lý của văn bản mới khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua.
- Một thành tựu cũng cần được ghi nhận đó là việc nhiều địa phương đã coi trọng công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL thành một hoạt động thường xuyên và xác định đây là một hoạt động quan trọng gắn liền với công tác xây dựng văn bản và thực hiện pháp luật. Qua công tác này, một số địa phương đã phát hiện kịp thời những văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ. Mặt khác, trong quá trình ban hành văn bản QPPL, các cấp chính quyền địa phương đã bước đầu chú ý việc gắn quá trình xây dựng văn bản với tổ chức việc thực hiện văn bản bằng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương.
2. Những hạn chế
Do chưa có quy định thống nhất về việc xây dựng văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương nên thời gian qua, công tác ban hành pháp luật của địa phương còn chưa được đưa vào nề nếp và bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục như:
- Vẫn còn tình trạng ban hành văn bản có tính quy phạm dưới hình thức không do luật định như công báo, thông báo, kết luận….Đây là tồn tại khá phổ biến trong hoạt động ban hành văn bản QPPL của UBND các cấp ở tất cả các địa phương và kéo dài từ nhiều năm nay.
- Nguyên tắc đồng bộ trong xây dựng văn bản QPPL ở các cấp cơ quan nhà nước ở địa phương chưa đảm bảo. Trong hoạt động ban hành văn bản vẫn còn có quan niệm cho rằng: cơ quan cấp trên có loại văn bản nào, đề cập vấn đề gì thì địa phương cũng phải có hình thức cho mỗi loại văn bản đó, dẫn đến tình trạng trùng lặp, hồng chéo. Bên cạnh đó, vẫn còn hiện tượng nhiều văn bản có cùng nội dung hoặc văn bản của cơ quan cấp dưới quy định lại những vấn đề đã được văn bản của cấp trên quy định nhưng không đầy đủ, thậm chí không đúng, gây hiểu sai và không thực hiện được; hoặc nội dung không có gì mới, không cụ thể hóa văn bản của cấp trên cho phù hợp với tình hình thực tế, mà ngược lại chỉ đơn thuần sao chép lại, sao chép thiếu và nghiêm trọng hơn là làm sai lệch tinh thần văn bản của cấp trên.
- Tiếp đến, do chưa quản lý tốt, chưa kiểm soát được tình hình ban hành văn bản, thiếu sự điều phối có hiệu quả từ một kế hoạch, định hướng cơ bản, cho nên ở phần lớn các địa phương, hệ thống văn bản QPPL chưa đồng bộ, hoàn thiện. Có lĩnh vực còn quá ít văn bản hoặc văn bản có nội dung đã lạc hậu, không được kịp thời thay thế, sửa đổi, bổ sung. Ngược lại, có lĩnh vực quá nhiều văn bản cùng điều chỉnh về một vấn đề, một nội dung…Có một văn bản bị sửa đổi, thay thế liên tục làm hạn chế tác dụng, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
- Và vẫn còn tình trạng ban hành văn bản vượt thẩm quyền hoặc trái thẩm quyền về hình thức do pháp luật quy định. Điều này xảy ra ở cả ba cấp: tỉnh, huyện, xã nhưng tập trung nhiều ở cấp huyện, xã và đặc biệt ở cấp xã. Đồng thời, trong hệ thống văn bản QPPL của cơ quan nhà nước ở địa phương còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, chưa có tính thống nhất cao….Nhiều văn bản QPPL có nội dung không hợp pháp và không hợp lý, không khả thi.
- Ngoài ra, nhiều trường hợp dự thảo văn bản kém chất lượng, thiếu tính khả thi, sử dụng căn cứ pháp lý để ban hành văn bản đôi khi còn rất tùy tiện; Văn bản ban hành không có căn cứ pháp lý hoặc căn cứ vào công văn, thông báo, kết luận miệng của lãnh đạo; Căn cứ không chính xác hoặc thậm chí căn cứ vào những văn bản đã hết hiệu lực để ban hành văn bản mới. Việc thẩm định pháp lý đối với dự thảo các văn bản QPPL của UBND theo quy định của pháp luật hiện hành và về nguyên tắc thuộc trách nhiệm của các cơ quan tư pháp địa phương. Nhưng thực tế ở một số địa phương vấn đề này lại do các cơ quan thuộc UBND hoặc thư ký của UBND phụ trách từng lĩnh vực tự soạn thảo, không có sự thẩm định của cơ quan tư pháp nhưng vẫn được trình UBND ký ban hành.
- Cuối cùng, đó là việc quản lý, lưu trữ văn bản QPPL còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ chưa bảo đảm tính khoa học, nhất là các cấp huyện, xã. Công tác hệ thống hóa văn bản mới dừng lại chủ yếu ở cấp tỉnh. Do không nắm được kết quả rà soát, xử lý văn bản quy phạm của UBND tỉnh, vẫn còn tình trạng cơ quan quản lý áp dụng văn bản đã bị bãi bỏ hoặc hết hiệu lực, gây ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý Nhà nước trong phạm vi địa phương.
3. Nguyên nhân của những hạn chế
Xác định đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân của những hạn chế của việc ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương là việc vô cùng quan trọng và phải xuất phát từ những yếu tố khách quan và chủ quan tới việc ban hành. Những hạn chế trên đã bắt nguồn từ những nguyên nhân như:
Các quy định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa hợp lý, chưa thống nhất. Đó là việc pháp luật quy định chưa cụ thể về việc HĐND, UBND có thẩm quyền sẽ phải sử dụng tên loại văn bản nào cho phù hợp để giải quyết một công việc cụ thể, nên khi ban hành văn bản đôi khi không thể lựa chọn chính xác tên văn bản phải ban hành. Viêc luật quy định thẩm quyền ban hành văn bản QPPL đến cấp xã, đặc biệt là thẩm quyền ban hành chỉ thị của UBND cấp xã còn chưa hợp lý. Đồng thời, những quy định của pháp luật còn thiếu thống nhất, thể hiện ở việc cùng một vấn đề, cùng một lĩnh vực mà pháp luật giao cho nhiều cơ quan cùng có thẩm quyền quản lý, điều này sẽ gây trở ngại cho việc triển khai văn bản nào. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng, cụ thể về cơ chế kiểm tra, giám sát và chế độ chịu trách nhiệm của các chủ thể trong soạn thảo, ban hành văn bản QPPL cũng như các chế tài để xử lý những trường hợp vi phạm hoạt động này.
Tiếp đến, là công tác xây dựng, soạn thảo ban hành văn bản QPPL ở các cấp địa phương, nhất là cấp huyện, xã còn nhiều bất cập, không hợp lý. Nhìn chung trình tự, thủ tục, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia vào công đoạn của quá trình ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND chưa được rõ ràng, cụ thể. Ở một số địa phương hoạt động này còn bị tùy tiện cắt xén, chủ yếu mang tính chất tùy nghi, phụ thuộc vào từng nhận thức của từng địa phương.
Ngoài ra, một nguyên nhân không thể không nhắc đến đó là nhận thức, trình độ chuyên môn của cơ quan, cá nhân soạn thảo và ban hành văn bản QPPL ở địa phương còn quá mỏng, chưa đủ sức đảm đương trách nhiệm được giao. Đồng thời, trình độ kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ, chuyên viên làm công tác soạn thảo văn bản QPPL còn thiếu và yếu về trình độ, năng lực, chưa được đào tạo cơ bản…
Và cuối cùng, chính là kinh phí cho việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương còn hạn hẹp. Theo thông tư liên tịch số 09/ 2007/ TTLT- BTP-BTC ngày 15/ 11/ 2007 của Bộ TP và Bộ TC về hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí, ngân sách Nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng các văn bản QPPL của HĐND, UBND. Tuy nhiên, tại các địa phương có những nơi chưa quy định cụ thể hoăc ban hành nhưng còn hạn hẹp về mức chi cho công tác soạn thảo văn bản QPPL. Và việc cấp kinh phí lại chưa kịp thời nên nhiều dự thảo được soạn cầm chừng hoặc chỉ là dự kiến, nhiều hoạt động cần thiết bị cắt xén…
III. Một số giải pháp trong hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương hiện nay.
Nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ban hành văn bản QPPL, đồng thời khắc phục những hạn chế trên. Trong thời gian tới, chúng ta phải tiến hành đồng bộ những biện pháp sau:
Trước hết, cần phải phân định thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND. Cần xác định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của từng cấp chính quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng vùng; giao hẳn một số lĩnh vực cho địa phương gắn với quyền quyết định về bộ máy, nhân sự và kinh tế, tiến hành phân cấp mạnh hơn, rõ hơn cho các cấp địa phương theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết….
Hoàn thiện những quy định pháp luật về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND để đảm bảo chất lượng cao, đi vào nề nếp, theo một thủ tục, trình tự chặt chẽ, khoa học và hợp lý. Việc luật hóa về trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND rất cần thiết phải có sự kế thừa các quy định có tính tích cực của một số địa phương, trên cơ sở phù hợp với cơ cấu chung của luật ban hành văn bản QPPL.
Đồng thời, cần nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương với những biện pháp chủ yếu như: Trên cơ sở xác định đúng vị trí, vai trò, kiện toàn về cơ cấu, tổ chức, phân định rõ ràng, cụ thể và hợp lý thẩm quyền của các cơ quan chính quyền địa phương, Quốc hội cần sớm ban hành Luật về thẩm quyền, trình tự ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND; Các cơ quan nhà nước ở địa phương cần ban hành văn bản pháp luật đúng hình thức theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, phù hợp với nội dung, mục đích, đối tượng, tác động của văn bản; Cuối cùng, là cần xác định việc lấy ý kiến nhân dân xây dựng cho các dự thảo văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương là nội dung cần thiết, mang tính tích cực, chủ động làm cho các quy định của văn bản thực sự đi vào cuộc sống mỗi khi được ban hành.
Tiếp đến, là cần đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ quan nhà nước ở địa phương. Đó là thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nhất là kiến thức về pháp luật, về quản lý nhà nước một cách cơ bản, có hệ thống cho đội ngũ cán bộ, công chức.
Ngoài ra, cần kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của chính quyền địa phương với những nội dung: Trước hết, cơ quan ban hành văn bản QPPL phải tự kiểm tra các văn bản đã ban hành và kiểm tra việc ban hành văn bản của cơ quan, đơn vị cấp dưới để kịp thời xử lý văn bản sai trái; Cần quy định trách nhiệm pháp lý của cơ quan và những người có liên quan trực tiếp đến việc banh hành những văn bản đó; Và để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra đòi hỏi cần có một cơ chế kiểm tra phù hợp bao gồm các yếu tố: thế chấp pháp luật, tổ chức nhân sự, nguồn thông tin, tư liệu, cơ sở vất chất….
C. KẾT LUẬN
Ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương có nội dung phù hợp với nhu cầu phát triển khách quan của xã hội, có hình thức đáp ứng được những đòi hỏi của quản lý nhà nước luôn luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Nên cần phải nâng cao chất lượng của những văn bản đó phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao động, có nội dung hợp pháp, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội…Do vậy, càng khẳng định việc ban hành văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở địa phương cũng là một trong những vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng nhà nước XHCN vững mạnh.
*** DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ***
1. Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Trường ĐH Luật HN, NXB CAND, năm 2008.
2. Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay – Hoàng Minh Hà, Trường ĐH Luật HN, năm 2004.
3. Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay- Đào Thị Tố Uyên, Trường ĐH Luật HN, năm 2003.
4. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND, Tạ Hữu Ánh, Tạp chí Quản