Trải qua hơn sáu mươi năm kể từ khi ra đời, vị trí của HĐND các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định. Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
HĐND có ba chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Trong ba chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X “Nâng cao chất lượng của HĐND và UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vị được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của HĐND”.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bổ sung thêm một chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của HĐND. Từ khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây dựng được chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các Đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn chế. Ví dụ như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thực sự khoa học, các kết luận giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát lại đâu vào đó, kỹ năng giám sát của đại biểu HĐND còn thấp Cho nên hoạt động giám sát của HĐND cho tới nay vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đáng bàn. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên em xin chọn đề tài: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành”. Trong quá trình nghiên cứu nội dung của đề tài, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Dưới góc độ luật Hiến pháp, khóa luận sử dụng các phương pháp luận của triết học Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động giám sát của HĐND. Để tiếp cận đề tài khóa luận sử dụng các phương pháp truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Chương 2 : Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như nhận thức về lí luận và thực tế, nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của Thầy, Cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Thầy, Cô giáo và các bạn.
62 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3188 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
T
rải qua hơn sáu mươi năm kể từ khi ra đời, vị trí của HĐND các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định. Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
HĐND có ba chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Trong ba chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X “Nâng cao chất lượng của HĐND và UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vị được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của HĐND”.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bổ sung thêm một chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của HĐND. Từ khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây dựng được chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các Đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành…Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn chế. Ví dụ như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thực sự khoa học, các kết luận giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát lại đâu vào đó, kỹ năng giám sát của đại biểu HĐND còn thấp…Cho nên hoạt động giám sát của HĐND cho tới nay vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đáng bàn. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên em xin chọn đề tài: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành”. Trong quá trình nghiên cứu nội dung của đề tài, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Dưới góc độ luật Hiến pháp, khóa luận sử dụng các phương pháp luận của triết học Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động giám sát của HĐND. Để tiếp cận đề tài khóa luận sử dụng các phương pháp truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh…
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Chương 2 : Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như nhận thức về lí luận và thực tế, nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của Thầy, Cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Thầy, Cô giáo và các bạn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.1 Vị trí, tính chất và chức năng của Hội đồng nhân dân.
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được quy định tại Điều 119, Điều 120 Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003: “HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương có quyền quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước, HĐND là cơ quan bầu ra UBND, Thường trực HĐND và Hội thẩm tòa án nhân dân cùng cấp. HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Nghị quyết của HĐND phải được quá nửa tổng số đại biểu biểu quyết tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND quy định tại Điều 46 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. HĐND thực hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương trên địa bàn lãnh thổ, đồng thời thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao. Quyết định của HĐND có tính chất bắt buộc đối với mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân ở địa phương.
Như vậy, HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước và gốc của chính quyền nhân dân. Khác với Quốc hội, Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước sử dụng quyền lực Nhà nước trên phạm vi toàn quốc, HĐND sử dụng quyền lực Nhà nước trong phạm vi hẹp hơn, trong địa phương mình. Điều này có tính chất quyết định tới phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND
HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Cơ cấu HĐND được hợp thành từ những đại biểu ưu tú đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, thành phần xã hội trong phạm vi địa phương. HĐND tồn tại, hoạt động trước hết vì lợi ích của nhân dân địa phương nhưng phải phù hợp với lợi ích chung của cả nước. HĐND chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương. Một yếu tố khác thể hiện tính đại diện của HĐND là chế độ bãi nhiệm đại biểu HĐND, đại biểu nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức độ vi phạm mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực HĐND và UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Trong trường hợp HĐND bãi nhiệm đại biểu thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu thì tiến hành theo thể thức do UBTVQH quyết định.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, HĐND là tổ chức chính quyền gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững đặc điểm của địa phương, do đó có cơ sở quyết định mọi công việc sát hợp với nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, HĐND là một tổ chức vừa có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. HĐND một mặt cần chăm lo xây dựng địa phương, đảm bảo sự phát triển về kinh tế văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.
Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND có ba chức năng cơ bản như sau:
Thứ nhất: Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Thứ hai: Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương
Thứ ba: Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong mọi hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội thì “giám sát” là hoạt động không thể thiếu. Nếu thiếu hoặc yếu trong hoạt động giám sát thì rất dễ trở thành quan liêu, không thực quyền. Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực Nhà nước trực tiếp từ nhân dân nên hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp là sự giám sát ủy quyền của nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước để đảm bảo cho hoạt động đó phục vụ cho lợi ích, ý chí nguyện vọng của nhân dân.
Xuất phát từ ý nghĩa đó và đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, Quốc hội khóa XI đã ban hành “Luật hoạt động giám sát của Quốc hội” (17/6/2003) và “Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003” (26/11/2003). Trong đó, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có một chương mới “Hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND” (Chương III với 24 Điều).
1.2 Khái niệm giám sát và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
1.2.1 Khái niệm giám sát
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giám sát:
Theo từ điển Tiếng Việt “giám sát” được hiểu là: “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định hoặc dùng để chỉ “một chức quan đảm nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó”.
Theo từ điển Luật học: “giám sát” là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả từ trước đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh”.
Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là xem xét và đàn hạch”.
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm giám sát được giải thích: “ Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”.
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 tại các điều 1, 29, 30 và 31 cũng không định nghĩa trực tiếp giám sát là gì. Tuy nhiên, có thể hiểu, trước tiên, giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền hạn và là trách nhiệm của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình thức hoạt động và công cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập tới nội dung cơ bản: giám sát là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ.
Với quan niệm trên, giám sát có những đặc trưng sau:
Giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là trả lời cho câu hỏi ai là người có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
Giám sát luôn gắn với một đối tượng nhất định tức là trả lời cho câu hỏi là giám sát ai và giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra” vì “kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là sự kiểm tra lại hoạt động của chính mình của chủ thể hoạt động. Giám sát thì không có sự đồng nhất này, chủ thể thực hiện việc theo dõi, xem xét đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối tượng chịu sự giám sát. Giám sát khác với "thanh tra nhà nước", "thanh tra chuyên ngành" vì thanh tra chính là một công cụ của kiểm tra, tức là từ bên trong. Giám sát khác với “kiểm sát”, vì kiểm sát mặc dù cũng là hành vi giám sát từ bên ngoài của một cơ quan độc lập nhưng kiểm sát gắn với thẩm quyền tố tụng và về thực chất là một công cụ thường xuyên của cơ quan bầu ra nó, tức là của cơ quan dân cử. Những sự khác biệt trên đây gợi ý về mối quan hệ làm việc, phối hợp và giản lược sự chồng chéo giữa các hành vi được mô tả trên đây.
Tóm lại, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp dụng của nó rất rộng, muốn có khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định, chẳng hạn như giám sát của Quốc hội, giám sát của HĐND, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật khác, Hoạt động giám sát của HĐND có thể hiểu như sau: Giám sát của HĐND là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các ban của HĐND và các Đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, pháp luật từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.
Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
a. Đặc điểm về chủ thể giám sát.
Theo quy định tại Điều 57 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện hoạt động giám sát bao gồm : HĐND (một tập thể các đại biểu HĐND tại kỳ họp), Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, đại biểu HĐND.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 (sửa đổi), Thường trực HĐND chưa phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mới chỉ là người đôn đốc, kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng như vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở địa phương. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể giám sát của HĐND ngày càng được mở rộng và quy định chặt chẽ hơn.
b. Đặc điểm về đối tượng giám sát.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tượng giám sát của HĐND bao gồm:
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp (Điều 58)
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp ( Khoản 2 Điều 58)
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương ( Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55).
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND rất phong phú và đa dạng bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương. Hiện nay, pháp luật không phân cấp giám sát giữa HĐND các cấp, điều đó không có nghĩa là HĐND mỗi cấp thực hiện thẩm quyền giám sát như nhau đối với mọi hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát. Đối tượng, phạm vi, mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự phân cấp, tính chất của mối quan hệ giữa HĐND với đối tượng chịu sự giám sát. Chẳng hạn với UBND do mối quan hệ chấp hành của cơ quan này với HĐND mà phạm vi, mức độ giám sát của HĐND rất lớn bao trùm mọi hoạt động của UBND và khả năng xử lý lớn đối với quyết định, hành vi và cả nhân sự của UBND. Nhưng với TAND, VKSND thì hoạt động giám sát của HĐND chủ yếu ở việc xem xét tính pháp chế của các bản án đã được giải quyết và sự phối hợp của Tòa án, Viện kiểm sát với địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Kết quả giám sát của HĐND với Tòa án chỉ có thể là đề nghị. Nếu có hậu quả pháp lý nào đó đối với Tòa án chỉ là hậu quả gián tiếp không xuất phát từ thẩm quyền của HĐND.
c. Đặc điểm về hình thức giám sát.
Theo quy định tại Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
Thứ nhất: Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND nhân dân cùng cấp.
Đây là hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND. HĐND xem xét thảo luận báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND và VKSND cùng cấp tại kỳ họp cuối. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu HĐND, khi cần thiết HĐND có thể xem xét. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc 6 tháng tại kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định. Trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của Đại biểu HĐND đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND. Theo quyết định của Chủ tịch HĐND hoặc của người điều khiển phiên họp, báo cáo của các đối tượng giám sát được chuyển cho các Ban của HĐND thẩm tra, nghiên cứu trước. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của các thành viên, các ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trước HĐND.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự nhất định: người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo, Trưởng ban HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận, người đứng đầu cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà HĐND quan tâm, HĐND ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết. [19, tr.79]
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công tác của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó, HĐND có thể kiểm soát tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiến đời sống xã hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu UBND và các ban ngành về công tác của họ trước HĐND.
Thứ hai: Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp;
Tại Điều 122 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án TAND, VKSND và Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND trong thời hạn do luật định”.
Để cụ thể hoá Hiến pháp, Điều 61 và khoản 2 Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Điều 53 Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005 đã quy định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục chất vấn tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp của đại biểu HĐND. Cụ thể:
+ Đối với việc ra câu hỏi chất vấn:
Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND, Thường trực HĐND chuyển nội dung chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo HĐND.
Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn và báo cáo HĐND quyết định; ngoài câu hỏi chính, có thể nêu câu hỏi bổ sung liên quan đến nội dung đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm cũng như biện pháp khắc phục.
+ Đối với việc trả lời chất vấn: người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm cũng như biện pháp khắc phục.
Thực chất của hoạt động chất vấn là việc đại b