Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tếthếgiới, các hoạt
động giao thương quốc tế ngày càng được mở rộng, không chỉ là các m ối
quan hệhợp tác, giao lưu đối ngoại mà còn là các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá. Việt Nam đang thực hiện các chính sách thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua đã
có nhiều thành tựu đáng khích lệ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đều có
những tăng trưởng nhất định. Đóng góp vào những thành tựu đó phải kế đến
những ngành vận tải hỗtrợcho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đặc
biệt là ngành hàng không, m ột trong những ngành đang có tốc độphát triển
cao.
Ngành hàng không dân dụng hiện nay là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn của Việt Nam. Đặc trưng của ngành là ngành kinh tếkỹthuật có
tính khai thác sản phẩm thiết bịkhoa học công nghệcao nên toàn bộthiết bị
phụtùng hay máy móc phục vụcho ngành hàng không đều phải nhập khẩu từ
nước ngoài. Quá trình xuất nhập khẩu các hàng hoá chuyên ngành Hàng
không là hoạt động đóng vài trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiện
đại hóa cơsởvật chất cho ngành. Và Công ty CP Xuất nhập khẩu Hàng không
(AIRIMEX) là công ty chuyên ngành thực hiện các nghiệp vụxuất nhập khẩu
thiết bịphụtùng máy móc cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam và các
đơn vịkinh doanh khác.
98 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2535 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bịhàng không tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 1 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
----------
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Đề tài: “Hoạt động nhập khẩu máy móc
thiết bị hàng không tại Công ty Cổ phần
Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng
và giải pháp”
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 2 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế giới, các hoạt
động giao thương quốc tế ngày càng được mở rộng, không chỉ là các mối
quan hệ hợp tác, giao lưu đối ngoại mà còn là các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá. Việt Nam đang thực hiện các chính sách thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua đã
có nhiều thành tựu đáng khích lệ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đều có
những tăng trưởng nhất định. Đóng góp vào những thành tựu đó phải kế đến
những ngành vận tải hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đặc
biệt là ngành hàng không, một trong những ngành đang có tốc độ phát triển
cao.
Ngành hàng không dân dụng hiện nay là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn của Việt Nam. Đặc trưng của ngành là ngành kinh tế kỹ thuật có
tính khai thác sản phẩm thiết bị khoa học công nghệ cao nên toàn bộ thiết bị
phụ tùng hay máy móc phục vụ cho ngành hàng không đều phải nhập khẩu từ
nước ngoài. Quá trình xuất nhập khẩu các hàng hoá chuyên ngành Hàng
không là hoạt động đóng vài trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiện
đại hóa cơ sở vật chất cho ngành. Và Công ty CP Xuất nhập khẩu Hàng không
(AIRIMEX) là công ty chuyên ngành thực hiện các nghiệp vụ xuất nhập khẩu
thiết bị phụ tùng máy móc cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam và các
đơn vị kinh doanh khác.
Hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng
không trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu lớn, nhưng bên
cạnh đó vẫn còn những hạn chế trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Nhưng để có thể đánh giá chính xác hơn thực trạng hoạt động kinh doanh tại
Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX và dưới sự chỉ dẫn
tận tình của Th.S Nguyễn Quang Huy và sự giúp đỡ của các cán bộ phòng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 3 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
kinh doanh, em chọn đề tài : “Hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị hàng
không tại Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không: Thực trạng và
giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp.
Việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hoạt động kinh doanh của Công
ty trong thời gian vừa qua. Qua đó rút ra được những điểm mạnh, yếu trong
hoạt động kinh doanh và từ đó sẽ đề xuất ra phương hướng và giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
• Chương 1: Khái quát những vấn đề cơ bản về hoạt độnh nhập
khẩu hàng hoá của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
• Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu thiết bị tại Công ty
Cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không - AIRIMEX
• Chương 3: Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị tại công ty
Cổ phần Xuất nhập khẩu Hàng không trong thời gian tới
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi từ TH.S Nguyễn Quang Huy - Giảng viên Khoa Thương
mại và các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh trong công ty. Em xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ hết sức quý báu này! Do kiến thức còn hạn chế và
thiếu kinh nghiệm thực tiễn, đề tài của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong
sự góp ý của các thầy cô, các cán bộ nhân viên trong công ty,… để đề tài được
hoàn thiện hơn và giúp em nâng cao tầm nhận thức.
Em xin chân thành cảm ơn!
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 4 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
CHƯƠNG I:KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH
NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU
1. NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1.1.Khái niệm
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam
luôn đạt mức khá, và trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8%. Để có
mức tăng trưởng cao như vậy, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc
đẩy hoạt động ngoại thương trong các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Xuất khẩu và
nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, xuất khẩu hàng hoá sẽ thu ngoại
tệ về để thực hiện nhập khẩu còn nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá
nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Do đó, hoạt động nhập khẩu là điều kiện cần để
nâng cao chất lượng hàng hoá nhờ nguồn nguyên liệu tốt và trang thiết bị máy
móc hiện đại.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá là quá trình mua hàng hoá hay dịch vụ
của một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở quốc
gia này từ một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở
một quốc gia khác theo nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm phục vụ sản xuất
trong nước hay tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với mỗi quốc gia, hoạt động nhập khẩu luôn là một bộ phận quan
trọng trong quá trình buôn bán quốc tế, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa
các nền kinh tế trên thế giới. Điều này càng thể hiện rõ ràng hơn khi sự khan
hiếm về tài nguyên của mỗi nền kinh tế. Điển hình là Nhật Bản, một nước có
nguồn tài nguyên khan hiếm và phải nhập khẩu nhiều loại hàng hoá khác nhau
đề khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Hoạt động nhập
khẩu hàng hoá của Nhật Bản cho thấy phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 5 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
và vai trò quan trọng của hoạt động nhập khẩu đối với mỗi quốc gia trong việc
phát triển nền kinh tế.
Hơn nữa, với xu thế toàn cầu hoá, liên minh liên giữa các nền kinh tế
hình thành nên các khu vực mậu dịch tự do hay các liên minh kinh tế như EU,
AFTA, NAFTA,… cho thấy khối lượng các hoạt động ngoại thương ngày
càng lớn và nhập khẩu là một bộ phận không thể thiếu để ổn định nền kinh tế
của từng quốc gia riêng lẻ mà còn là sự ổn định của liên minh hay của từng
khu vực kinh tế.
1.2. Vai trò của nhập khẩu
Qua những thời kì phát triển của nền kinh tế thế giới, ta có thể thấy
được mối quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển nền kinh tế và hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế. Quốc gia nào có hoạt động thương mại quốc tế phát
triển thì ở đó có một nền kinh tế phát triển. Trước năm 1986, Việt Nam chủ
trương xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng thực tế đã chỉ ra rằng đó là
một sai lầm trong việc khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh. Sự
khan hiếm hàng hoá hay các thiết bị máy móc kĩ thuật đã gây ra ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và buôn bán hàng hoá. Học được từ
những thất bại đó, Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa nền kinh tế từ năm
1986 nhằm thu hút đầu tư và thực hiện các hoạt động ngoại thương bên cạnh
hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và xây dựng
nền kinh tế thị trường của các nước phát triển. Hoạt động nhập khẩu được
thúc đẩy mạnh giải quyết tình trạng thiếu hàng hoá và cải tiến công nghệ trong
hoạt động sản xuất. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đặt
được những thành tựu quan trọng và để có được kết quả như vậy không thể
không kể đến vai trò quan trọng của nhập khẩu hàng hoá.
Thứ nhất, nhập khẩu kết hợp với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu sẽ thu ngoại tệ về để
chi trả hàng hoá nhập khẩu, còn nhập khẩu hàng hoá nhằm giải quyết sự khan
hiếm nguồn lực và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu nhờ trang thiết bị
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 6 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
máy móc hiện đại. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hoá trên thị trường sẽ ngày càng
phong phú hơn, đa dạng hơn cả về kiểu cách, màu sắc, chủng loại, mẫu mã và
chất lượng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu sử dụng hàng hoá, đặc biệt là hàng
hoá mà trong nước chưa thể sản xuất được. Hơn nữa, nhập khẩu hàng hoá sẽ
thúc đẩy quá trình đào thải trên thị trường diễn ra mạnh mẽ hơn, những hàng
hoá có chất lượng thấp, mẫu mã không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng dần dần
không chiếm đuợc thị trường và bị đào thải. Các doanh nghiệp kinh doanh
thưong mại và doanh nghiệp sản xuất cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ
hàng hoá nhập khẩu. Sự kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn khi mà nhu cầu nhập khẩu ngày
càng tăng. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi
cách quản lý và làm việc của mình nếu không họ sẽ bị thanh lọc khỏi thị
trường. Sự thay đổi này sẽ giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển và gián
tiếp cải thiện đời sống người lao động tại doanh nghiệp về lương hay điều
kiện làm việc.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ thúc đẩy hoạt động xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với bất kì quốc gia nào trên thế giới,
họ đều không thể tự sản xuất được tất cả hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng hay
xây dựng, đặc biệt ở những nước đang phát triển. Những nền kinh tế đang
phát triển như Việt Nam, quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục
đích phát triển kinh tế là rất lớn, nhưng những nền kinh tế này không thể tự
sản xuất ra các trang thiết bị máy móc hiện đại, do đó không còn con đường
nào khác ngoài nhập khẩu để hiện thực hoá mục đích đó. Ngoài ra, hoạt động
nhập khẩu phát triển sẽ điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của nhập khẩu
sẽ đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ do áp dụng
những thành tựu khoa học trên thế giới, qua đó tỉ trọng ngành dịch vụ và công
nghiệp tăng còn tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm dần.
Thứ ba, nhập khẩu hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất, chất lượng
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 7 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
là tiêu chí đầu tiên khi lựa chọn nguyên vật liệu. Các doanh nghiệp sản xuất
trong nước đang khan hiếm nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, họ cũng cần một quy trình sản xuất
hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Do đó, hoạt động nhập khẩu sẽ
giúp họ giải quyết tốt những vấn đề này. Còn với doanh nghiệp thương mại,
nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài đem tiêu thụ tại thị trường trong nước sẽ
đem lại lợi nhuận cho họ khi hàng hoá đó có chất lượng tốt, mẫu mã phong
phú thoả mãn yêu cầu của thị trường.
Các quốc gia trên thế giới đang áp dụng ngày càng nhiều khoa học công
nghệ vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế này, nhất là Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế
giới nên hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ là một ưu thế cho Việt Nam tận
dụng những thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nhập khẩu
vẫn còn những hạn chế nếu không có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước:
- Hoạt động nhập khẩu tràn lan dẫn đến lãng phí nguồn lực gây ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất trong nước
- Hoạt động nhập khẩu hàng hoá luôn cần có ngoại tệ để có thể chi trả,
đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Các nền kinh tế phát triển có nhu cầu nhập khẩu lớn
nhưng lượng ngoại tệ lại không cho phép. Nếu hoạt động xuất khẩu không
được phát triển thì tình trạng vay nợ từ các quốc gia hay các tổ chức tài chính
quốc tế sẽ kéo dài. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế khi tỷ giá hối
đoái tăng cao, nợ nước ngoài lớn gây khó khăn cho xuất khẩu.
- Nhập khẩu quá nhiều sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng cán cân
thương mại quốc tế. Tình trạng nhập siêu sẽ đẩy tỉ giá hối đoái tăng cao gây
khó khăn cho cả hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu. Trong khi nhập khẩu cần
nhiều ngoại tệ thì hoạt động xuất khẩu lại không đem lại nguồn ngoại tệ mong
muốn để chi trả hàng nhập khẩu do nội tệ đang ngày càng mất giá còn ngoại tệ
lại lên giá.
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 8 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
Là nước có nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy
móc thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động sản xuất và đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu cũng như tiêu thụ trong nội địa của Việt Nam ngày càng tăng trong khi
trình độ kỹ thuật vẫn còn thấp. Vì vậy, nhập khẩu là phương án tối ưu mà Việt
Nam có thể thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước. Cùng với sự phát
triển kinh tế là vị thế của Việt Nam trên thế giới, hàng hoá của Việt Nam có
thể cạnh tranh được với hàng hoá từ các nước khác khi chất lượng được cải
thiện rõ rệt và mẫu mã được cải tiến thoả mãn thị hiếu của từng thị trường.
1.3. Các phương thức nhập khẩu
1.3.1. Nhập khẩu liên doanh
Đây là hình thức nhập khẩu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể kinh
tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có ít nhất một bên nhập khẩu
trực tiếp nhằm kết hợp với nhau để thực hiện các giao dịch và đưa ra các biện
pháp liên quan đến nhập khẩu để cả hai bên cùng thu được lợi ích mong
muốn.
Trong hình thức này, các bên không phải chịu rủi ro do có sự phân bổ
về vốn, trách nhiệm, quyền hạn cho các bên. Thực tế, bên nào có kinh
nghiệm, bạn hàng giao dịch và nghiệp vụ tốt sẽ có quyền nhập khẩu và trực
tiếp góp vốn, bảo đảm cho các hoạt động sau đó như tiêu thụ, gia công.
Tại Việt Nam, hoạt động nhập khẩu liên doanh vẫn đang được áp dụng
tại nhiều doanh nghiệp do một mặt thiếu vốn, năng lực cần thiết; mặt khác do
không thể tìm được đối tác có nhu cầu tương tự.
1.3.2. Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức nhập khẩu mà một doanh nghiệp độc lập nhập khẩu hàng
hoá mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp
nhập khẩu không chỉ nghiên cứu thị trường, luật pháp và chính sách của nhà
nước mà còn là các tập quán quốc tế, thông lệ quốc tế.
Khi áp dụng hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp nhập khẩu tự tìm
kiếm nhà cung ứng những hàng hoá mình cần nhập khẩu. Điều này đòi hỏi
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 9 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
doanh nghiệp phải nắm bắt được chất lượng hàng hoá của đối tác cũng như
những thông tin về đối tác để đảm bảo không bị gian lận thương mại. Trong
hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ chịu toàn bộ những rủi ro xảy ra
nhưng được hưởng lợi toàn bộ. Các doanh nghiệp sẽ có sự tự chủ trong việc
mua hàng hoá hơn so với các hình thức khác, nhà nhập khẩu sẽ tự chủ hoàn
toàn từ khâu nghiên cứu nhu cầu thị trường cho đến tìm kiếm đối tác, ký kết
hợp đồng và thực hiện hoạt động nhập khẩu. Đây là điểm khác biệt nhất so
với các hình thức nhập khẩu khác.
1.3.3. Nhập khẩu tái xuất
Là hình thức nhập khẩu hàng hoá từ một nước khác sau đó tái xuất khẩu
sang một nước thứ ba mà không qua các khâu gia công, chế biến hay sản xuất.
Đặc điểm đặc trưng của hình thức nhập khẩu này là có ba chủ thể kinh
tế ở ba quốc gia khác nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Để áp dụng hình thức này, doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu thị
trường của các nước để đảm bảo nguồn cung ứng và đầu ra cho hoạt động
kinh doanh không chỉ là về giá cả, mặt hàng mà còn là luật pháp, tập quán
từng nước.
1.3.4. Buôn bán đối lưu
Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết
hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với số lượng hàng nhận về.
Trong nghiệp vụ này, hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi
sổ giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn, hai bên mới so và đối chiếu giá trị hàng
đã giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng
còn dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc
có thể được ghi vào sổ nghiệp vụ bù trừ năm sau.
1.3.5. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập nhẩu uỷ thác được hình thành giữa một doanh nghiệp
có vốn, ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 10 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
nhưng lại không có khả năng nhập khẩu trực tiếp, do đó doanh nghiệp này sẽ
uỷ thác cho một doanh nghiệp khác có khả năng nhập khẩu trực tiếp hàng hoá
theo yêu cầu của mình, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ thu được lệ phí
trong hoạt động nhập khẩu uỷ thác.
Trước khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, hai bên sẽ ký kết hợp đồng mà
theo đó bên uỷ thác nhận được hàng hoá theo đúng yêu cầu của mình và phải
trả cho bên nhận uỷ thác một khoản tiền gọi là lệ phí uỷ thác. Bên nhận uỷ
thác sẽ thay mặt bên uỷ thác tự tìm kiếm đối tác và thực hiện tất cả các khâu
trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá đó. Bên cạnh đó, bên nhận uỷ thác không
phải chịu rủi ro về vốn hay về hoạt động bán hàng vì sau khi nhận được lệ phí
uỷ thác, bên nhận uỷ thác sẽ giao hàng cho bên uỷ thác. Trên thực tế, bên
nhận uỷ thác thường là các công ty lớn có khả năng về vốn, nghiệp vụ và có
uy tín trên thị trường.
Hoạt động nhập khẩu sẽ đem lại lợi ích cho cả bên uỷ thác và bên nhận
uỷ thác. Trong khi bên nhận uỷ thác kiếm được một khoản lệ phí uỷ thác, còn
bên uỷ thác vẫn có những hàng hoá mà mình mong muốn mặc dù điều kiện để
nhập khẩu trực tiếp không cho phép. Bên uỷ thác cũng sẽ tiết kiệm được thời
gian khi không phải làm các thủ tục để có thể nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên,
về lâu dài các doanh nghiệp uỷ thác sẽ mất lợi thế về chi phí trong hoạt động
bán hàng và đôi khi hàng hoá không đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng, kỹ
thuật như trong hợp đồng uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có nhiều hình thức, các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu cần xác định chính xác tiềm lực của mình không
chỉ về tài chính mà bên cạnh đó là các nghiệp vụ trong hoạt động nhập khẩu
hàng hoá sao cho lợi ích đem lại là tối ưu.
2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI DOANH NGHIỆP
Hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng như hoạt động ngoại thương nói
chung luôn được tổ chức thực hiện với nhiều khâu, nhiều nghiệp vụ từ nghiên
cứu thị trường và tìm kiếm đối tác cho đến đàm phán ký kết hợp đồng và thực
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 11 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
hiện hợp đồng đó. Đây là một qui trình đồng bộ đòi hỏi sự chính xác và kỹ
lưỡng trong tùng nghiệp vụ nhằm thực hiện hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả
cao.
2.1. Nghiên cứu thị trường, xác định hàng hoá cần nhập khẩu
2.1.1. Khái niệm thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường
Thị trường theo góc độ kinh doanh là tập hợp những khách hàng có
những nhu cầu khác nhau mà các nhà kinh doanh hướng tới nhằm thoả mãn
tốt nhất nhu cầu của họ để thu vầ lợi nhuận cho mình (Giáo trình Marketing
Thương mại – NXB Lao Động – Xã hội 2005)
Trong hoạt động kinh doanh, bất kì một công ty, một doanh nghiệp nào
cũng đều có một thị trường mục tiêu mà mình hướng tới và chỉ đến khi nào
doanh nghiệp hay công ty có thể thâm nhập, chinh phục và khai thác thị
trường đó thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, muốn
có thể thâm nhập vào thị trường đó, điều đầu tiến doanh nghiệp cần phải tiến
hành là nghiên cứu thị trường một cách tổng thể và có khoa học.
Nhìn chung có nhiều phương pháp để nghiên cứu thị trường, nhưng xét
một cách tổng quát thì có hai phương pháp chính: nghiên cứu tại hiện trường
và nghiên cứu tại bàn.
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp thu thập thông tin thông qua các
kênh gián tiếp như báo chí, phương tiện truyền thông, các báo cáo, thống kê
của các cơ quan có chức năng,.. Phương pháp này giúp tiết kiệm chi phí, thời
gian nhưng thông tin không phản ánh đúng xu thế của thị trường, do đó không
đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu và chiến lược phát triển thị
trường dài hạn.
Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp thu thập những thông tin từ
thị trường mà doanh nghiệp hướng tới, sau đó phân tích và đưa ra những kết
luận. Trong phương pháp này, những hình thức như điều tra phỏng vấn, qua
bảng hỏi, qua quan sát và ghi chép, qua thư góp ý,… là những hình thức được
sử dụng một cách thường xuyên. Những thông tin này cần phải qua một bước
LuËn v¨n tèt nghiÖp
NguyÔn Xu©n Léc 12 Líp: Th−¬ng m¹i quèc tÕ 46
quan trọng đó là tổng hợp, phân tích, đánh giá mới thấy được xu hướng vận
động của thị trường.