Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Trong hơn hai mươi năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới, cùng với những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế - xã hội, bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung và Quốc hội nói riêng, đã có nhiều thay đổi tích cực về tổ chức và hoạt động. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn và đổi mới, nhất là từ nhiệm kì Quốc hội khóa VII đến nay ngày càng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn cuả mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế xã hội, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động của Quốc hội còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Những hạn chế này không chỉ bắt nguồn từ cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội mà còn có nguyên nhân nội tại từ chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội, trong đó có hoạt động tiếp xúc cử tri. Do vậy cần nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội nói chung và hoạt động tiếp xúc cử tri nói riêng, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
65 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3750 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hộ nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Trong hơn hai mươi năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới, cùng với những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế - xã hội, bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung và Quốc hội nói riêng, đã có nhiều thay đổi tích cực về tổ chức và hoạt động. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn và đổi mới, nhất là từ nhiệm kì Quốc hội khóa VII đến nay ngày càng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn cuả mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế xã hội, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động của Quốc hội còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Những hạn chế này không chỉ bắt nguồn từ cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội mà còn có nguyên nhân nội tại từ chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội, trong đó có hoạt động tiếp xúc cử tri. Do vậy cần nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội nói chung và hoạt động tiếp xúc cử tri nói riêng, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong những năm qua đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và Nhà nước, nhiều bài viết đề cập đến các khía cạnh khác nhau về Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và hoạt động của đại biểu Quốc hội, trong đó có đề cập ít nhiều đến hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Đó là “ Đề án đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội” do Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện; hoặc một số nội dung về hoạt động của đại biểu Quốc hội trong đề tài cấp Nhà nước do Văn phòng Quốc hội chủ trì về “ Luận cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội”. Riêng việc tổ chức nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội còn hạn chế, ít công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, đề cập một cách toàn diện về vấn đề này.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp kết hợp lí luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử, phân tích tổng hợp so sánh…
4. Mục đích, nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích của khóa luận làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, trên cơ sở đó đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những nguyên nhân từ đó tìm ra giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy các quy định pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có những nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
Hai là, đánh giá thực trạng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó.
Ba là, kiến nghị các giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm 3 chương, cùng với đó là phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
Theo Hiến pháp năm 1992, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân không thể trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước cho nên phải bầu ra các cơ quan đại biểu là Quốc hội ở trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương để thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta. Quốc hội nước ta đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một tổ chức chính quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Cơ cấu tạo nên Quốc hội chính là các đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng tuyển cử tự do. Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân. Các ĐBQH là những người được bầu ra để thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất [18,tr355]. Theo quy định của các bản Hiến pháp từ trước đến nay, đặc biệt là Hiến pháp 1992, ĐBQH nước ta có địa vị pháp lí rất quan trọng. Địa vị đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:
ĐBQH là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN - cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
ĐBQH do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Qua bầu cử, nhân dân ủy nhiệm quyền lực của mình để ĐBQH thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Dù được bầu cử ở một đơn vị hành chính theo đơn vị bầu cử, nhưng trong hoạt động của mình, ĐBQH phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân.
ĐBQH có những thẩm quyền đặc biệt mà các cá nhân khác trong bộ máy nhà nước không có được. Đó là các quyền gắn với quyền lực của Quốc hội và các quyền miễn trừ do pháp luật quy định.
ĐBQH có địa vị pháp lí rất đặc biệt. Đó là người đại diện của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Vì vậy, ĐBQH có vai trò là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. ĐBQH vừa chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. ĐBQH là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Khi làm nhiệm vụ, đại biểu phải xuất phát từ lợi ích chung của cả nước đồng thời cũng phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của địa phương đã bầu ra mình, phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và những quy định của chính quyền nhà nước ở địa phương [18,tr355].
Để ĐBQH thực hiện tốt vai trò đại diện cho ý chí cho và nguyện vọng của nhân dân, thể hiện đầy đủ trách nhiệm to lớn trước nhân dân Hiến pháp và pháp luật quy định ĐBQH phải đi sâu đi sát, liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh đúng ý kiến của cử tri với Quốc hội, với các cơ quan nhà nước hữu quan. Đại biểu là tế bào sống, là yếu tố cấu thành của Quốc hội, có vai trò quyết định đến quá trình thực hiện các chức năng của Quốc hội hay nói cách khác hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Việt Nam.
Tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội
Vị trí của ĐBQH được xác định trong mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân dân; là người đại diện cho nhân dân, phản ánh ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đồng thời cũng là người biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành các quy định pháp luật của nhà nước. Trong hoạt động của nhà nước, ĐBQH là người đại diện cho nhân dân xem xét, quyết định các vấn đề của đất nước về lập hiến, lập pháp, các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của ĐBQH phải gắn với nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, sự tham gia của nhân dân vào hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi ĐBQH.
Là hạt nhân cấu thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, các ĐBQH có trách nhiệm thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri, tiếp xúc với cử tri đã tín nhiệm bầu ra mình. Đối với các ĐBQH, đây là hoạt động có tính thực tiễn rất cao. Tính thực tiễn đó được thể hiện thông qua hoạt động đối thoại trực tiếp để đại biểu nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các kiến nghị chính đáng của cử tri là hình thức phản ánh bản chất của quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp của nhân dân đối với công việc của đất nước. Chỉ có thể xây dựng được mối quan hệ máu thịt với nhân dân, ĐBQH mới có khả năng hòa cùng nhịp đập của cuộc sống, đem hơi thở cuộc sống, đem được tiếng nói của nhân dân vào các nghị quyết, các đạo luật và giám sát có hiệu quả việc thực hiện các nghị quyết các đạo luật đó. Nếu không giữ mối liên hệ gắn bó với cử tri, ĐBQH sẽ xa rời thực tiễn, trở nên quan liêu, không thể đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, không thể thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Vì vậy, không thể phản ánh đúng bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân [20, tr228].
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện ba chức năng giám sát tối cao và chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Với chức năng lập pháp, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đồng thời xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN. Với chức năng giám sát, Quốc hội giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với các quy định của pháp luật. Đối với chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội là cơ quan quyết định về chính sách ngoại giao, các vấn đề chiến tranh và hòa bình, và những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đông đảo người dân trong xã hội. Để thực hiện tốt các chức năng này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi ĐBQH cần rất nhiều loại thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nguồn thông tin trực tiếp từ cử tri là nguồn thông tin không thể thiếu được giúp cho pháp luật do Quốc hội ban hành mang hơi thở cuộc sống; giám sát của Quốc hội mới có hiệu quả thiết thực; các quyết định của Quốc hội mới có ý nghĩa thực tiễn và cuối cùng, Quốc hội mới thực sự là cơ quan đại diện của dân, ĐBQH mới thực sự là người đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của người dân.
Như vậy, để thực thi tốt nhiệm vụ đại biểu của mình nói riêng và chức năng của Quốc hội nói chung, các ĐBQH cần phải giữ mối quan hệ thường xuyên và mật thiết với các cử tri. Chính vì lẽ đó, TXCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội quy định khá cụ thể.
1.3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội ở nước ta
Quá trình hình thành và hoàn thiện những quy định về hoạt động TXCT của ĐBQH ở nước ta gắn liền với quá trình hình thành và hoàn thiện của bộ máy nhà nước, đặc biệt là gắn với sự ra đời của bốn bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992). Có thể nói mỗi bản Hiến pháp là một bước phát triển của quy định về hoạt động TXCT của ĐBQH ở nước ta. Ngay từ Hiến pháp 1946 đã ghi rõ: “Nghị viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân” [5, đ25]. Năm 1957, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I đã ra Nghị quyết về vấn đề kiện toàn tổ chức của Quốc hội, trong đó quy định cụ thể một số nhiệm vụ của ĐBQH như “Để hiểu rõ tình hình nhân dân đề đạt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân lên Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phải giữ sự liên hệ với nhân dân ở địa phương đã bầu ra mình hay là ở một nơi thuận lợi với hoàn cảnh cư trú. Chính quyền các cấp có trách nhiệm giúp đỡ các đại biểu hiểu rõ tình hình nhân dân. Tuỳ theo nhu cầu công tác Ban Thường trực Quốc hội tổ chức những đoàn đại biểu đi tiếp xúc với nhân dân” [3, tr833].
Cũng tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I, Ban Thường trực Quốc hội đã quyết định tăng thêm các Uỷ viên thường trực và thành lập 3 Tiểu ban, mỗi Tiểu ban do một Uỷ viên thường trực phụ trách, trong đó có Tiểu ban Dân nguyện (hoạt động hết nhiệm kỳ Quốc hội khoá I). Nhiệm vụ của Tiểu ban Dân nguyện là phụ trách việc nghiên cứu các đơn, thư, nguyện vọng, các ý kiến của nhân dân đề đạt lên Quốc hội [3, tr895]. Với cách thức tổ chức này, các đơn thư phản ánh tình hình, nguyện vọng, kiến nghị…của nhân dân gửi lên Quốc hội, Ban Thường trực Quốc hội đã được Tiểu ban Dân nguyện nghiên cứu và xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ thể Tiểu ban Dân nguyện phối hợp với các cơ quan của Chính phủ giải quyết thích đáng. Các báo cáo của Ban thường trực Quốc hội tại các kỳ họp đều có kiểm điểm về công tác này trong mục “Vấn đề liên hệ với nhân dân”. Năm 1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp thay thế Hiến pháp 1946. Năm 1960, Quốc hội ban hành Luật tổ chức Quốc hội, trong đó đã cụ thể hóa một bước quy định về trách nhiệm của ĐBQH “phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” [7, đ41].
Đến Hiến pháp năm 1980 đã quy định rõ hơn trách nhiệm của ĐBQH và được Luật tổ chức Quốc hội năm 1981 cụ thể hóa, theo đó trách nhiệm tiếp xúc cử tri của ĐBQH đã được quy định: “Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri. Sau mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp, phổ biến và giải thích các luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua”. [9,đ43]
Hiến pháp năm 1992 ra đời một lần nữa khẳng định rõ bản chất Nhà nước ta. Điều 97 Hiến pháp 1992 quy định “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó”[10, đ97].
Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 về việc ĐBQH liên hệ chặt chẽ với cử tri, ngoài việc quy định trách nhiệm của ĐBQH tiếp xúc cử tri “thường xuyên”, còn nêu rõ ĐBQH phải “thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan” [11,đ43].
Ngày 10/9/2004, UBTVQH khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/ UBTVQH11- ĐCTUBTWMTTQVN quy định và hướng dẫn cụ thể về các hình thức tổ chức TXCT.
Nói chung, các quy định pháp luật liên quan đến công tác TXCT của ĐBQH đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như Luật Tổ chức Quốc hội (2001), Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội (2002), Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Nội quy kỳ họp Quốc hội (2002) và được quy định cụ thể tại Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam (gọi tắt là Nghị quyết liên tịch) ban hành hướng dẫn về việc ĐBQH tiếp xúc cử tri.
1.4. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội
Từ nhiệm kì Quốc hội khóa IX đến nay về tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, các hình thức hoạt động của Quốc hội cũng được cải tiến, Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Vị trí pháp lí của ĐBQH trong Hiến pháp 1992 về cơ bản vẫn tiếp tục kế thừa các quy định trong Hiến pháp 1980. Tiếp xúc cử tri là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn đại biểu Quốc hội quy định khá rõ. Thời kì này, các văn bản pháp luật quy định về hoạt động TXCT của ĐBQH khá đầy đủ, cụ thể và toàn diện làm cơ sở cho ĐBQH thực hiện hoạt động này một cách có hiệu quả.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội 1992 quy định: ” Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan [11,đ51].
Như vậy, Luật tổ chức Quốc hội đã phát triển mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri, theo đó ĐBQH phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nhưng cũng phải thường xuyên TXCT. Về cơ bản hoạt động TXCT được thể hiện khá cơ bản trong các quy định nêu trên. Ngoài các văn bản trên, Quốc hội còn ban hành các Nghị quyết quy định hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, Nghị quyết quy định về nội quy kì họp của Quốc hội…nhằm cụ thể hóa một cách cụ thể và đầy đủ về hoạt động TXCT.
Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH có quy định:” Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp xúc cử tri theo chương trình tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp không thể tham gia tiếp xúc cử tri thì đại biểu Quốc hội phải báo cáo với trưởng đoàn đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có thể tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi làm việc. Đại biểu Quốc hội liên hệ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương nơi cư trú hoặc Ban chấp hành Công đoàn nơi làm việc để tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử tri”[16, đ12]
Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quy định:” Mỗi năm một lần, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri trong thời gian cuối năm đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.
Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội”[16,đ13].
Cùng với thực tiễn hoạt động của ĐBQH và các Đoàn ĐBQH, nhất là trước đòi hỏi ngày càng cao hơn, cụ thể hơn về hoạt động TXCT, để đáp ứng mong đợi của đại đa số cử tri và thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội giao, ngày 10/9/2004, UBTVQH khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN (gọi tắt là Nghị quyết liên tịch) quy định và hướng dẫn cụ thể về các hình thức tổ chức tiếp xúc cử tri. Nghị quyết cũng đã quy định về trách nhiệm của ĐBQH, cơ quan tổ chức hữu quan trong TXCT; quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hội nghị TXCT; việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và giám sát, đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri...
Theo Điều 6 của Nghị quyết 06 thì việc TXCT của ĐBQH được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai.
Thời điểm TXCT là trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội khoảng hai mươi ngày và trong khoảng hai mươi ngày kể từ sau ngày bế mạc kỳ họp Quốc hội, ĐBQH có trách nhiệm TXCT ở địa phương mình ứng cử để thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri về những vấn đề thuộc chươ