Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.1, tr.358 Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan trọng của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung thì cần có những biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”.2 Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh vực này.
61 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5866 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người với những công cụ bằng đồng, đá cho đến những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay là cả một quá trình phấn đấu, tìm tòi phát triển không ngừng của mỗi con người trong xã hội. Các Mác đã nói “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.(1, tr.358( Quả thực như vậy, vì hoạt động con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động con người gắn liền với xã hội, phục vụ cho xã hội. Nhưng cũng phải nhận thấy rằng để sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, con người phải lao động để duy trì cuộc sống, phát triển xã hội và vì vậy con người chính là lực lượng sản xuất chủ yếu, không có con người thì không có xã hội loài người.
Thực tế, chúng ta đều có thể nhận thấy là khi lao động sản xuất con người luôn luôn phải đối mặt với tai nạn, rủi ro, bệnh tật,… đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của con người. Để khắc phục được tình trạng đó, có rất nhiều biện pháp đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro xảy ra, nhưng đó là chưa đủ bởi vị trí và tầm quan trọng của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung thì cần có những biện pháp khác nữa để khắc phục hậu quả đó. Vì vậy, bảo hiểm con người đã ra đời. Bảo hiểm con người giúp mỗi người khi tham gia ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, tạo ra chỗ dựa tinh thần để họ an tâm học tập, lao động sản xuất. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010, Đảng và nhà nước ta đã xác định “ tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường bảo hiểm trong nước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài”.(2( Bảo hiểm nói chung, bảo hiểm con người nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội.
Đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển, vừa là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với việc các nước tăng cường hợp tác thì việc phát triển kinh tế để hội nhập là tất yếu và vì vậy, vấn đề bảo hiểm con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì những nguyên nhân trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm con người những vấn đề lý luận và thực tiễn”, mục tiêu của đề tài nhằm khai thác được những vấn đề mọi người quan tâm, để thấy được vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm con người và đặc biệt là tăng thêm sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh vực này.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm con người, trên cơ sở xem xét các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự, và các văn bản có liên quan. Trên cơ sở đó thấy được ưu điểm, nhược điểm của các quy định để đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm con người nói riêng.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp,…
4. Tình hình thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Về vấn đề bảo hiểm con người đã có nhiều công trình đề cập đến như giáo trình “Bảo hiểm” của trường Đại học Kinh Té Quốc Dân, cuốn “Bảo hiểm nhân thọ những vấn đề lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Trần Vũ Hải. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết về bảo hiểm con người trên các sách, báo, tạp chí… Tuy nhiên những công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận của bảo hiểm con người hoặc đi sâu nghiên cứu bảo hiểm nhân thọ (lĩnh vực chủ yếu của bảo hiểm con người). Qua đề tài này tác giả muốn trình bày và đi sâu nghiên cứu bảo hiểm con người trên cả hai phương điện đó là lý luận và thực tiễn.
5. Cơ cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khoá luận còn có phần nội dung được cơ cấu thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương II: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
Chương III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người.
Với ý nghĩa là một đề tài khoa học khoá luận đòi hỏi nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Là sinh viên lần đầu tiếp xúc với đề tài khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM CON NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ lương thực khi mất mùa.
Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi mất mùa nó không mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn, ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước có ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh công nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình công nghiệp hoá, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ Anh thông qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc các công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19 người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này vẫn tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân của loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát triển nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình như Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735 công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759 hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đoàn này đã kí kết được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được. Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp buộc các công ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu trở thành ngành công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại phát triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở Mỹ phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn giải phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1 và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thông tư hướng dẫn:
Thông tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành Nghị định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì quá chung chung, không thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm”.(7( Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền bảo hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và thực hiện HĐBH con người.
Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “ Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.(9( Giải pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH con người nói riêng luôn có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn thiện là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế được thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và HĐBH nhân thọ nói riêng không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu trong HĐBH. Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng là không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người một “giá trị” tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người
2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH) với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hoặc trả một số tiền trong trường hợp mất hàng hoặc xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo hiểm”. Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện bảo hiểm do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật), nên phạm vi trả tiền bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế theo tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo hiểm hoặc người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Không ai có thể xác định được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người không áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời nhiều HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các khoản tiền từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới hạn về giá trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi trả thanh toán của công ty bảo hiểm và khoản bồi thường