Hợp đồng dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi mới một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991) và trong 2 pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy định một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành lang pháp lí quan trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Hơn nữa, từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam đã từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, quá trình này đã mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Trong đó, các tranh chấp về hợp đồng dân sự ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Để giải quyết được các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn tại hợp đồng hay không?” và “Hợp đồng có hiệu lực hay không?” để từ đó xác định các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường, góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân sự.
27 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4179 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng dân sự vô hiệu Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
BÀI LÀM
I- Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
1.1- Khái niệm
1.2- Đặc điểm
1.3- Ý nghĩa của hợp đồng dân sự trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
2. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
II- Quy định về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
III- Xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
2. Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
4. Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với qui định của pháp luật
IV- Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Dựa vào tính chất của hợp đồng dân sự
2. Dựa vào hiệu lực của hợp đồng
3. Dựa vào điều kiện có hiệu lực
V- Các căn cứ luật định về hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
2. Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
3. Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
5. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
6. Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
7. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức
8. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
VI- Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự
2. Xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu
VII- Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Điều kiện xác định người thứ ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu
2. Giải quyết hậu quả pháp lý
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi mới một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991) và trong 2 pháp lệnh về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn đề hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy định một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 tạo ra một hành lang pháp lí quan trọng cho giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Hơn nữa, từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam đã từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, quá trình này đã mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Trong đó, các tranh chấp về hợp đồng dân sự ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Để giải quyết được các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn tại hợp đồng hay không?” và “Hợp đồng có hiệu lực hay không?” để từ đó xác định các bên có quyền và nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường, góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân sự.
BÀI LÀM
Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu
Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
Khái niệm
Khái niệm về hợp đồng dân sự phải được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo phương diện khách quan, hợp đồng dân sự là do các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong xã hội được phát sinh do quá trình trao đổi các lợi ích vật chất giữa các chủ thể tham gia quan hệ đó với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự trong đó các bên trao đổi ý chí với nhau để đi đến một thỏa thuận chung nhằm làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định đối với nhau.
Như vậy, hợp đồng dân sự được hiểu là : “ hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, một dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”.
Hay hợp đồng dân sự được hiểu một cách đơn giản là “ sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”.
1.2- Đặc điểm
Là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý là: phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia
Mang tính ý chí, là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên tham gia hợp đồng. ý chí này phù hợp với ý chí của nhà nước.
Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng
1.3- Ý nghĩa của hợp đồng dân sự trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Tạo hàng lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng
Khi các bên tham gia hợp đồng thì có quyền tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng , nhưng sự tự do ấy phải nằm trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Việc pháp luật quy định về các điều kiện để chủ thể giao kết hợp đồng và các biện pháp chế tài nếu các bên không tuân thủ các điều kiện đó là nhằm bảo vệ trật tự công, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng dân sự. Do vậy, chế định pháp lý về hợp đồng dân sự trong đó có các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
là cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra
Khi có tranh chấp thì chính những cam kết mà các bên đã thỏa thuận sẽ là chứng cứ quan trọng để xác định xem ai là người vi phạm, cần phải áp dụng biện pháp chế tài như thế nào cho phù hợp. Nếu trong trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu, thì cam kết đóng vai trò quan trọng xác định lỗi của các bên tham gia, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm khi giải quyết hậu quả hợp đồng dân sự vô hiệu.
Bảo đảm cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Những cam kết của các chủ thể tham gia hợp đồng là căn cứ quan trọng để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra xem các chủ thể đó có thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật hay không. Đồng thời áp dụng các biện pháp chế tài cho các bên vi phạm khi cần thiết.
Bảo đảm sự ổn định của các quan hệ sở hữu tài sản
Khi một hoặc các bên vi phạm thì hợp đồng dân sự bị vô hiệu, bên vi phạm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi cho chính họ, ví dụ: bị phạt cọc... Việc quy định này có ý nghĩa khắc phục những thiệt hại cho bên vi phạm, đồng thời còn tạo nên sự công bằng xã hội, tạo ra sự ổn định trong giao lưu tài sản, góp phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản.
Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn. Đây là nguyên tắc chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận. Ở Việt Nam để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại Điều 410, 127 và Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo đó hợp đồng dân sự bị vô hiệu khi không thỏa mãn một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS, là :
người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạp đức xã hội
người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện
hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật
Vô hiệu theo nghĩa thông thường được hiểu là : “ không có hiệu lực, không có hiệu quả”. Như vậy hợp đồng dân sự vô hiệu chính là hợp đồng không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý.
Quy định về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
Trong lịch sử thế giới, chế định hợp đồng đã có từ lâu, như ở châu Âu, chế định hợp đồng đã có từ thời Cổ đại La mã vào những thế kỷ IV– V trước Công nguyên, người La mã đã xây dựng được hệ thống thuật ngữ về phạm trù pháp lý về bản chất của hợp đồng như là hợp đồng miệng, hợp đồng viết, sự thể hiện ý chí trong giao dịch dân sự, giao dịch theo lương tâm, giao dịch theo pháp luật;
Tuy nhiên ở Việt Nam, cho đến thế kỷ XIX pháp luật dân sự vẫn chưa nhận được sự quan tâm của triều đại phong kiến lúc bấy giờ; ngay như Bộ Luật Hồng Đức cũng chỉ quy định rất giản đơn về 3 loại hợp đồng ruộng đất.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dưới sự bảo hộ của Pháp chế định khế ước hay hợp đồng mới được ghi nhận trong các văn bản pháp luật chính thức như ở Nam kỳ có Bộ Dân luật giản yếu năm 1883; Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Luật Trung Kỳ năm 1936 do người Pháp khai thác thuộc địa và ban hành những đạo luật phần lớn có lợi phục vụ cho nước Pháp.
Như vậy từ đầu thế kỷ XX chế định hợp đồng hay khế ước được xuất hiện ở Việt Nam do 3 Bộ Luật Dân sự điều chỉnh gồm có :
1. Bộ Dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam kỳ, nhưng trong bộ luật này chỉ nói về nhân thân (nói về người) không có điều khoản nào qui định về chế định hợp đồng hay khế ước, khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng hay khế ước, các Toà Nam án thường áp dụng các điều khoản của Dân luật của Pháp như lý trí thành văn (raison écrite) liên quan đến hợp đồng nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự; các Toà án Pháp ở Nam Việt còn áp dụng các điều khoản Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, có khi còn áp dụng cả Luật Hồng Đức và Luật Gia Long, nếu liên quan đến thừa kế và tập tục cổ truyền của Việt Nam...
2. Bộ Dân Luật Bắc kỳ gồm có 1.455 điều, chia làm một thiên sơ bộ và 4 quyển, quyển thứ ba nói về khế ước và nghĩa vụ; và phạm vi áp dụng ớ các Toà án Bắc phần mà thôi.
3. Bộ Dân Luật Trung kỳ còn được gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật được ban hành ngày 13/07/1936 gồm có 1.709 điều, thì có 57 điều nói về khế ước – hợp đồng (từ điều 1216 – 1273); sở dĩ Dân luật Trung kỳ hơn Dân luật Bắc kỳ 254 điều, vì vấn đề khế ước – hợp đồng theo Dân luật của Pháp qui định kỹ hơn Dân luật Bắc.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hoà được thành lập, ngày 10/10/1945 Chủ Tịch Chính Phủ lâm thời Hồ Chí Minh ban hành sắc luật số 47 cho phép áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, nếu những luật lệ ấy không trái với nền độc lập của Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà, thì các quan hệ hợp đồng vẫn được điều chỉnh căn cứ vào các Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ, Bộ dân Luật Trung Kỳ; và đến ngày 10/07/1959 theo chỉ thị số 172-CT/TATC của Toà án nhân dân tối cáo đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến, chế định hợp đồng trong Bộ Dân luật bắc kỳ được chấm dứt vào trung tuần tháng 7 năm 1959; năm 1960 ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế; và Nghị định số 54/CP ngày 10/03/1975 của Chính phủ ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng.
Đến năm 1986 do điều kiện đổi mới kinh tế đất nước, và điều chỉnh nền kinh tế thị trường có điều tiết; các văn bản pháp luật được ra đời để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó có Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, dân sự trong đời sống xã hội ngày càng phát triển. Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta đã được Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1996, và các chế định hợp đồng cũng được Bộ luật này công nhận.
Tuy vậy, mặc dù chế định hợp đồng được Bộ luật dân sự 1995 qui định, vẫn chưa chấm dứt Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, nên vẫn còn hai chế định hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại vẫn tồn tại, khiến cho các qui định hợp đồng của Bộ luật Dân sự 1995 chưa được phát huy đúng mức của Bộ luật Dân sự;
Bộ luật Dân sự 2005 mới thể hiện được toàn diện về xã hội và địa vị pháp lý được bình đẳng, chế định hợp đồng được thống nhất trên mọi lãnh vực kinh tế và thương mại .
Xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
Theo Khoản 1 Điều 410 của BLDS 2005 : “các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 của bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng dân sự vô hiệu”.
Do vậy, hợp đồng dân sự vô hiệu khi không tuân thủ một trong các điều kiện sau:
người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
mục đích và nội dung của hợp đồng không trái với pháp luật, đạp đức xã hội
người tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện
hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật
Người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự
Cá nhân:
Theo qui định của BLDS thì: “ năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền nghĩa vụ dân sự.”
Năng lực hành vi dân sự của người thành niên( đủ 18 tuổi trở lên) là năng lực hành vi đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật qui định người mất năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự bị hạn chế. Đây là nhóm người được pháp luật cho phép tự do giao kết hợp đồng theo qui định của pháp luật.
Người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự bị hạn chế. Những cá nhân đó khi xác lập hợp đồng dân sự đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ , nếu không thì hợp đồng đó vô hiệu.
Người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự, mọi hợp đồng của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. họ không thể tự mình tham gia vào bất kì một hợp đồng dân sự nào.
Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình giao kết hợp đồng dân sự mà không đòi hỏi có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, điều khiển được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền , lợi ích liên quan, tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự .Những người này khi tham gia mọi hợp đồng dân sự đều phải có người giám hộ, họ không thể tự mình tham gia bất kì một hợp đồng dân sự nào.
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người : “ nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và theo yêu cầu của người có quyền lợi ích liên quan bị tòa án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Các hợp đồng dân sự có liên quan đến người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp những hợp đồng khi xác lập đã thông qua người đại diện và những giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày như: ăn , mặc...
“ Khả năng” trong qui định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hiểu là pháp luật cho phép hay không cho phép cá nhân đó tham gia , tham gia ở mức độ nào... khi xác lập thực hiện hợp đồng dân sự. Ví dụ một người có trình độ pháp lí mới được tham gia tư vấn luật, khi đó họ mới được phép tham gia hợp đồng có liên quan đến vấn đề hành nghề.
Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài : Người nước ngoài khi thực hiện hợp đồng dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Tổ chức:
Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia giao dịch phải có đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền thực hiện. Những người đại diện này cũng phải thỏa mãn các qui định đối với cá nhân nêu trên.
2.Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Theo nghĩa thông thường “ mục đích” có thể hiểu là cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được. Trong luật dân sự Việt Nam, mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng.
Nội dung, theo nghĩa thông thường là mặt bên trong của sự vật. Trong hợp đồng dân sự, nội dung được hiểu là tổng hợp các điều khoản mà các bên thỏa thuận nhằm làm phát sinh , thay đổi hoặc chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự ( theo nghĩa hẹp).
Mục đích, nội dung của hợp đồng dân sự là sự thể hiện hành vi có ý thức của con người khi xác lập , thực hiện hợp đồng và được pháp luật công nhận nên nó là điều kiện của mọi hợp đồng dân sự. Khi xét một hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật hay không , ngoài việc xét các nội dung còn phải xem xét đến mục đích của hợp đồng có trái pháp luật và đạo đức xã hội hay không.
Không trái pháp luật thể hiện ở chỗ các thỏa thuận không vi phạm điều cấm pháp luật, đối tượng của hợp đồng là tài sản được phép lưu thông. Ví dụ không được giao kết hợp đồng để kinh doanh vũ khí, chất độc, chất phóng xạ... hoặc buôn bán phụ nữ, trẻ em, động thực vật hoang dã quí hiếm ...
3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Tự nguyện là : tự mình muốn làm, không bị bắt buộc. Tính tự nguyện trong hợp đồng dân sự là khả năng về ý chí và biểu lộ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể tham gia. Trong hợp đồng dân sự yếu tố tự nguyện đóng vai trò rất quan trọng , là đặc trưng của pháp luật dân sự nước ta và là căn cứ để các chủ thể giao kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền nghĩa vụ giữa các bên.
Điều kiện cần để một người tham gia vào hợp đồng dân sự một cách tự nguyện là người đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Điều kiện đủ để xác định người đó tham gia hợp đồng có hoàn toàn tự nguyện hay không là hành vi tham gia hợp đồng của chủ thể phải là thể hiện ý chí đích thực của chủ thể đó.
Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với qui định của pháp luật
Hình thức của hợp đồng là phương tiện thể hiện nội dung của hợp đồng. Thông qua hình thức bên đối tác cũng như người thứ 3 có thể biết được nội dung của hợp đồng đã xác lập. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã , đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Người giao kết hợp đồng có quyền lựa chọn hình thức của hợp đồng đó , trừ trường hợp pháp luật có qui định .
Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng miệng, văn bản, hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong một số trường hợp pháp luật có qui định hợp đồng dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng kí thì phải tuân theo các qui định đó. Ví dụ: Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất.
IV- Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Dựa vào tính chất của hợp đồng dân sự
Vô hiệu tuyệt đối
Vô hiệu tương đối
Trình tự vô hiệu
mặc nhiên vô hiệu
chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và bị tòa án tuyên bố vô hiệu
Thời hạn yêu cầu tuyên bố HĐ vô hiệu
không bị hạn chế
2 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập
Mục đích
bảo vệ các lợi ích công
bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng
Mức độ nghiêm trọng của vi phạm
Vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội, giả tạo nhằm che dấu một hợp đồng khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, vi phạm quy định bắt buộc của pháp luật về hình thức của hợp đồng
vô hiệu khi hợp đồng được xác lập bởi người chưa thành niên, mất năng lực hành vi, hạn chế năng lực hành vi dân sự; do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa; tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình.
2. Dựa vào hiệu lực của hợp đồng
Vô hiệu toàn bộ
Vô hiệu một phần
toàn bộ nội dung của hợp đồng đều vô hiệu, một phần vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác
chỉ có một phần vô hiệu, chỉ có phần vô hiệu không có hiệu lực còn các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
Dựa và