Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là giao kết được thực
hiện với một số lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến; Hơn thế nữa, trong thực
tiễn giao lưu dân sự, nhu cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề
cấp thiết, phong phú về nội dung, đa dạng về đối tượng. Hàng ngày có vô số các
hợp đồng dân sự được thoả thuận ký kết, từ những hợp đồng sinh họat đơn giản
thường thấy , như : gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán chiếc Tivi, cái tủ lạnh, xe máy,
vay mượn . , đến những hợp đồng phức tạp: Hợp đồng chuy ển nhượng quy ền sử
dụng đất, mua bán nhà ở; hợp đồng dịch vụ về các đối tượng phức tạp, là thành
quả của kỷ thuật công nghệ cao, chẳng hạn: thoả thuận về dịch vụ mang bầu thuê,
tặng cho ADN, trứng; những hợp đồng qua fax, thư điện tử .
Song vấn đề ở đây là tính pháp lý của các thoả thuận giao kết trên, là giá trị
hiệu lực của các hợp đồng dân sự này có được bao đảm thi hành; Nhìn chung, bên
cạnh số lượng lớn HĐDS phù hợp với qui định pháp luật , có giá trị thi hành, thực
trạng còn nhiều HĐDS vô hiệu vẫn đang tồn tại, là một vấn đề bức xúc, tình trạng
HĐDS được giao kết giả tạo, lừa dối nhau, thực hiện mua bán, tặng cho tài sản
thuộc sở hữu của người khác, mua bán, tặng cho hàng hoá thuộc điều cấm của
pháp luật, hình thức hợp đồng không tuân thủ theo qui định của pháp luật., xâm
phạm đến quy ền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, gây thiệt hại nghiêm
trọng đến lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội .
Việc ban hành Bộ luật dân sự vào năm 1995 là rất kịp thời , đáp ứng được yêu
cầu cấp thiết của giao lưu dân sự đang ngày một phong phú, đa dạng, sôi động,
nhất là các qui định về HĐDS. Đến nay qua gần 10 năm thi hành, các qui định về
HĐDS đã đi vào cuộc sống ; Một mặt hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức
trong giao lưu dân sự, mặt khác tạo cơ sở pháp lý để xác định quy ền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng, tạo căn cứ để Toà án và các cơ
quan có thẩm quyền giải quy ết các tranh chấp về HĐDS, bảo vệ quy ền và lợi ích
hợp pháp của các bên, góp phần tạo sự ổn định và lành mạnh trong giao lưu dân
sự, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giao lưu hội nhập quốc tế.
24 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7869 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng dân sự vô hiệu -Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
1
ĐỀ TÀI: “Hợp đồng dân sự vô hiệu -
Thực trạng và giải pháp”
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
2
CHƯƠNG DẪN NHẬP
1. Lý do, mục đích, ý nghĩa khoa học của tiểu luận :
Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là giao kết được thực
hiện với một số lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến; Hơn thế nữa, trong thực
tiễn giao lưu dân sự, nhu cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề
cấp thiết, phong phú về nội dung, đa dạng về đối tượng. Hàng ngày có vô số các
hợp đồng dân sự được thoả thuận ký kết, từ những hợp đồng sinh họat đơn giản
thường thấy , như : gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán chiếc Tivi, cái tủ lạnh, xe máy,
vay mượn ... , đến những hợp đồng phức tạp: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, mua bán nhà ở; hợp đồng dịch vụ về các đối tượng phức tạp, là thành
quả của kỷ thuật công nghệ cao, chẳng hạn: thoả thuận về dịch vụ mang bầu thuê,
tặng cho ADN, trứng; những hợp đồng qua fax, thư điện tử ...
Song vấn đề ở đây là tính pháp lý của các thoả thuận giao kết trên, là giá trị
hiệu lực của các hợp đồng dân sự này có được bao đảm thi hành; Nhìn chung, bên
cạnh số lượng lớn HĐDS phù hợp với qui định pháp luật , có giá trị thi hành, thực
trạng còn nhiều HĐDS vô hiệu vẫn đang tồn tại, là một vấn đề bức xúc, tình trạng
HĐDS được giao kết giả tạo, lừa dối nhau, thực hiện mua bán, tặng cho tài sản
thuộc sở hữu của người khác, mua bán, tặng cho hàng hoá thuộc điều cấm của
pháp luật, hình thức hợp đồng không tuân thủ theo qui định của pháp luật..., xâm
phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, gây thiệt hại nghiêm
trọng đến lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội .
Việc ban hành Bộ luật dân sự vào năm 1995 là rất kịp thời , đáp ứng được yêu
cầu cấp thiết của giao lưu dân sự đang ngày một phong phú, đa dạng, sôi động,
nhất là các qui định về HĐDS. Đến nay qua gần 10 năm thi hành, các qui định về
HĐDS đã đi vào cuộc sống ; Một mặt hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức
trong giao lưu dân sự, mặt khác tạo cơ sở pháp lý để xác định quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng, tạo căn cứ để Toà án và các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về HĐDS, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên, góp phần tạo sự ổn định và lành mạnh trong giao lưu dân
sự, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giao lưu hội nhập quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, các qui định pháp luật về HĐDS vẫn còn
bộc lộ những vấn đề mang tính bất cập, các qui định có sự chồng chéo, trái ngược
nhau, điều đó đã gây khó khăn cho việc nhận thức cũng như áp dụng các qui định
pháp luật về HĐDS. Kết quả dẫn đến tồn tại rất nhiều HĐDS vô hiệu trên thực tế,
không đem lại mục đích các bên chủ thể mong muốn, dẫn đến nhiều tranh chấp,
khi giải quyết lại thiếu cơ sở pháp lý, gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm
quyền.
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
3
Vì những nguyên nhân trên đây bài viết này đi sâu nghiên cứu thực trạng
HĐDS vô hiệu, thống kê vụ việc, cập nhật nội dung để tìm ra những nguyên nhân
cơ bản, từ đó có những kiến nghị nhất định, đưa ra giải pháp nhằm khắc phục tình
trạng, giải quyết được hậu quả pháp lý của HĐDS vô hiệu, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên chủ thể, hoàn thiện hơn nữa các qui định pháp luật, kịp
thời điều chỉnh các quan hệ dân sự, các quan hệ về HĐDS.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Người nghiên cứu thực hiện chuyên đề về " Hợp đồng dân sự vô hiệu -Thực
trạng và giải pháp ", phạm vi báo cáo : trọng tâm đi vào thực trạng HĐDS vô
hiệu, các dạng tồn tại, nguyên nhân của thực trạng, đề ra giải pháp cụ thể.
Vì các lẽ trên nên đối tượng cơ bản của nghiên cứu này là:"Hợp đồng dân sự
vô hiệu " ( HĐDS vô hiệu)
Hợp đồng dân sự : là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập , thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự ( theo qui định tại điều 394 - Bộ luật dân sự );
Hợp đồng dân sự được xác định là có hiệu lực khi hợp đồng được giao kết tuân
theo điều kiện :
Theo qui định tại điều 131 _ Bộ luật dân sự
Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự ;
Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội;
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện ;
Hình thức của giao dịch hoàn toàn phù hợp với pháp luật .
Tuân theo nguyên tắc giao kết qui định tại điều 395_ Bộ luật dân sự
Tự do giao kết nhưng không được trái pháp luật , đạo đức xã hội ;
Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác .
Hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu khi : hợp đồng được giao kết vi phạm các
qui định nói trên, nghĩa là hợp đồng được giao kết do lừa dối , giả tạo, do nhầm
lẫn, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, bị đe doạ, ép
buộc, hình thức không tuân thủ theo qui định pháp luật .
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
4
Vì là chuyên đề nghiên cứu thực trạng, để các số liệu chính xác, trích dẫn được
chi tiết, phản ánh trung thực, người thực hiện đã áp dụng và kết hợp hài hoà một
số phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp thống kê :
Trong báo cáo này người thực hiện đã tìm đọc chi tiết các số liệu lưư trữ tại sổ
thụ lý án dân sự của TAND thị xã An Khê, của toà Dân sự - TAND tỉnh Gia Lai,
sau đó thống kê lại tổng số án thụ lý, tổng số vụ việc về HĐDS vô hiệu, đồng thời
ghi nhận chi tiết nội dung vô hiệu, từ đó xác định tỉ lệ HĐDS vô hiệu trong thực tế
với số liệu có được trong quản lý của các cơ quan có thẩm quyền
Phương pháp liệt kê :
Từ các ghi nhận nói trên, người thực hiện đã liệt kê các dạng tranh chấp, đưa
ra tiêu chí phân loại hợp đồng vô hiệu cơ bản đang tồn tại.
Phương pháp xã hội học :
Người thực hiện phát phiếu thăm dò thực tế, trao đổi với những người có thẩm
quyền liên quan về vấn đề giao kết HĐDS để tìm ra các dạng tranh chấp, khái
quát được thực trạng hợp đồng vô hiệu trong thực tiễn, xác định nguyên nhân tồn
tại thực trạng này .
4. Nội dung nghiên cứu
Chương 1 : Thực trạng về HĐDS vô hiệu
Trong chương này người nghiên cứu nêu lên cơ sở pháp lý của HĐDS, đưa ra
các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ về HĐDS, đồng thời ghi nhận các số
liệu chi tiết về HĐDS vô hiệu, đối chiếu số lượng HĐDS vô hiệu tồn tại trong thực
tế với số lượng HĐDS vô hiệu được đưa ra giải quyết tại các cơ quan có thẩm
quyền, để nêu lên sự ảnh hưởng đáng kể, tác hại nghiêm trọng khi các cơ quan
chức năng không quản lý được xác thực các HĐDS vô hiệu trong thực tiễn.
Đồng thời nêu lên một số nội dung tranh chấp nhất định, những lĩnh vực cơ
bản mà khả năng xảy ra các giao kết vô hiệu nhiều, rút ra được những dạng vô
hiệu cụ thể, phân loại ra các thực trạng HĐDS vô hiệu phổ biến .
Chương 2 : Nguyên nhân và giải pháp
Với những thực trạng HĐDS vô hiệu nghiên cứu tại chương 1, chương này đã
xác định được nguyên nhân cơ bản của thực trạng HĐDS vô hiệu, đề xuất
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
5
phương hướng cụ thể nhằm khắc phục thực trạng, hạn chế giao kết HĐDS vô
hiệu, giải quyết triệt để hậu quả pháp lý HĐDS vô hiệu, góp phần vào cơ sở lý
luận để sửa đổi, bổ sung những bất cập trong pháp luật về HĐDS.
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
Phần A : Cơ sở pháp lý
Hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là một giao dịch dân sự rất phổ biến trong giao lưu
dân sự hiện nay, thực tiễn cuộc sống việc giao kết HĐDS hiện là một hoạt động
thông dụng, cập nhật, phức tạp, và rất cần thiết nhằm thoả mãn các nhu cầu về đời
sống tinh thần, đáp ứng các mong muốn về vật chất, đảm bảo được quyền và lợi
ích chính đáng của các bên chủ thể, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định và phát
triển kinh tế, xã hội . Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết, từ tầm quan trọng bởi các yêu
cầu của các quan hệ về HĐDS, các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời ban hành
các qui định để điều chỉnh các quan hệ về HĐDS .
Bộ luật dân sự năm 1995 qui định về HĐDS tại các phần :
Chế định Hợp đồng dân sự được qui định tại Chương I, II ; Phần thứ ba về
Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự ;
Các vấn đề khác có liên quan đến HĐDS còn được điều chỉnh bởi các qui định
tại các phần khác nhau ở Chương 5
+ Phần thứ nhất : Những qui định chung ;
+ Phần thứ hai : HĐDS về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ;
+ Phần thứ sáu : về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ ;
+ Phần thứ bảy : về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài .
Để đưa vào áp dụng thực tiễn các qui phạm pháp luật điều chỉnh về HĐ DS,
thời gian vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản hướng
dẫn thi hành Bộ luật dân sự :
+ Nghị định số 63/CP ngày 24 - 10 - 1996 của Chính phủ, qui định chi tiết
về sở hữu công nghiệp, tiếp đó là thông tư số 3055/TT - SHCN ngày 31
- 12 - 1996 hướng dẫn thủ tục về việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp
và một số thủ tục khác trong nghị định 63 ;
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
6
+ Nghị định số 76/CP, ngày 29 - 11 - 1996 của Chính phủ, hướng dẫn thi
hành một số qui định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự.
Gần đây, Bộ văn hoá thông tin dã ban hành thông tư hướng dẫn về hợp
đồng sử dụng tác phẩm theo qui định tại Bộ luật dân sự và Nghị định
76/CP ;
+ Nghị định số 45/1998/NĐ-CP, ngày 01 - 07 - 1998 của chính phủ , qui
định chi tiết về chuyển giao công nghệ ;
+ Nghị định 165/199/NĐ-CP, ngày 19 - 11 - 1999 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm
+ Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10, ngày 20 -08 - 1998 về giao
dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 - 07 -1991 ;
Thời gian gần đây tại kỳ hợp Quốc Hội vào tháng 10, 11 năm 2004 cũng đã
thông qua nhiều dự luật có liên quan đến quan hệ HĐDS.
Ngoài ra các qui định điều chỉnh quan hệ về HĐDS còn được qui định trong
các văn bản pháp luật khác
+ Các HĐDS liên quan đến quyền sử dụng đất được qui định trong luật
đất đai 1993, luật đất đai năm 2003, Nghị định 181/2004/NĐ-CP ;
+ Các văn bản về hợp đồng vay tài sản ...
Phần B : Thực trạng
Qua thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự, các qui định pháp luật về quan hệ
HĐDS cho thấy, các qui định pháp luật dân sự nước ta, nhìn chung có tiến bộ,
tương đối hoàn thiện và đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các vấn đề cơ bản trong quan
hệ về dân sự, kỷ thuật lập pháp có tiếp thu những tinh hoa lập pháp qua các thời
kỳ, nội dung phù hợp với đặc thù kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, đặc thù
dân tộc.
Song các qui định về quan hệ HĐDS cũng không tránh khỏi những thiếu sót,
bất cập bởi nền kinh tế thị trường đa dạng, năng động, phức tạp luôn vận động và
phát triển, đời sống đi lên, trình độ dân trí nâng cao, nhu cầu giao dịch ngày càng
phát sinh, trở nên cấp thiết đối với mọi cá nhân và tổ chức, hơn nữa chịu áp lực
lớn trong quá trình hội nhập Quốc tế, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
Kết quả của những tồn tại trên dẫn đến một thực trạng các HĐDS vô hiệu rất
đáng kể, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
7
thể, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định , phát triển kinh tế, xã hội, nguy hại đến
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy bên cạnh số lượng các HĐDS có hiệu lực thi hành đem lại lợi ích
chính đáng cho các bên, thì con số các HĐDS vô hiệu cũng không phải nhỏ, vấn
đề ở đây là những giao kết vô hiệu đó không được các cơ quan thẩm quyền quản
lý, đa số vẫn được thực hiện trong thực tế ; Bàn về thực trạng HĐDS vô hiệu,
chúng ta cần phải đề cập đến hai vấn đề cơ bản :
Thứ nhất : HĐDS vô hiệu - Thực trạng và vấn đề quản lý, giám sát về HĐDS vô
hiệu
Qua điều tra khảo sát thực tế cho thấy, các quan hệ về HĐDS được giao kết
không đúng qui định pháp luật đang tồn tại với số lượng lớn trong giao lưu dân sự,
tuy nhiên vấn đề ở đây là, con số về HĐ DS vô hiệu là một con số ẩn , nghĩa là các
HĐDS vô hiệu được giao kết là rất lớn, được giao kết hàng ngày, hàng giờ, nhưng
hợp đồng vẫn được thực hiện, chấm dứt ; Số các HĐDS vô hiệu được giải quyết
tại các cơ quan có thẩm quyền không nhiều, để lại hậu quả phức tạp, xâm hại đến
quyền lợi hợp pháp của các bên, của những người khác có liên quan, gây khó khăn
cho việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền, xáo trộn trật tự đạo đức, xã hội.
Điều này có thể nhận thấy chi tiết hơn qua những thống kê dưới đây
Bằng phương pháp thăm dò xã hội học, điều tra thực tiễn , đặt câu hỏi với 25
người
+Hỏi : Khi có nhu cầu về vốn, bạn thường đi vay ở đâu, lãi suất bao nhiêu ?
=> Có 17 người trả lời : Thường đi vay chỗ bạn bè bên ngoài, nhanh hơn,
lãi suất khoản 2 - 3% một tháng;
+Hỏi : Khi đi bán xe máy - tài sản là sở hữu của 2 vợ chồng , theo bạn bên bán
ai ký vào giấy bán xe ?
=> Có 12 người trả lời : thì xe của tôi , tôi đứng tên trong " Cà vẹt " thì tôi
có quyền mua bán , tôi là người ký
Con số này phản ánh rằng : có từ 60 đến 70% các bên khi giao kết sẽ thiết lập
và thực hiện các HĐDS vô hiệu.
Trong khi bằng phương pháp tra cứu , thống kê các số liệu tại tòa án các cấp :
Theo hồ sơ thụ lý án dân sự tại Toà án, đơn thư khiếu nại tại các cơ quan có
thẩm quyền, thì các khiếu nại, khởi kiện về HĐDS lại thể hiện bằng con số rất
khiêm tốn, thật vậy,
Theo số liệu lưu trữ tại TAND thị xã An Khê _ tỉnh Gia Lai
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
8
Năm 2003: +Tổng số án dân sự được thụ lý là : 62 vụ ;
+Trong đó, tổng số khởi kiện về HĐDS vô hiệu : Không có thụ lý
Số liệu trên được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 12 năm 2003
Năm 2004 : +Tổng số án dân sự được thụ lý là : 52 vụ
+Trong đó tổng số các khởi kiện về yêu cầu tuyên bố HĐDS vô
hiệu, huỷ HĐDS chỉ có : 3 vụ
Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004
Theo số liệu lưu trử tại Toà dân sự - TAND tỉnh Gia Lai
Năm 2004 : +Tổng số án dân sự đã thụ lý (sơ thẩm và phúc thẩm) là : 48 vụ
+Trong đó các khởi kiện về yêu cầu huỷ HĐDS, tuyên bố HĐ DS
vô hiệu là : 12 vụ
Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004
Qua các thống kê trên cho thấy, HĐDS vô hiệu hiện nay đang tồn tại rất nhiều,
song vấn đề nghiêm trọng là, thực trạng này không nằm trong sự quản lý của các
cơ quan chức năng, HĐDS vô hiệu được thực hiện ngoài tầm kiểm soát, giám sát
của cơ quan có thẩm quyền, không tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật ; Khi một
HĐDS vô hiệu được giao kết, thực hiện, cũng có nghĩa là một hành vi vi phạm
pháp luật được thực thi trên thực tế, gây xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng
của các đương sự, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước, vi phạm nghiêm trọng pháp
chế XHCN. Chúng cần phải kip thời điều chỉnh và giám sát .
Thứ hai : Thực trạng về các dạng HĐDS vô hiệu cơ bản
Thông qua điều tra thực tiễn, thăm dò ý kiến trong quần chúng, kết hợp việc
nghiên cứu hồ sơ các vụ án tại TAND, đơn thư khiếu nại, tố cáo tại UBND các
cấp, và các cơ quan ban ngành khác, có thể tổng kết được như sau:
Căn cứ vào phạm vi các QHXH về HĐDS đã được pháp luật tác động, hay
chưa, hiện nay thực trạng về HĐDS vô hiệu tồn tại dưới hai loại cơ bản :
HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật về HĐDS ( Loại hợp đồng này đã được
pháp luật dự liệu và đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh, nhưng việc giao kết
hợp đồng vi phạm các qui định pháp luật ) ;
HĐDS vô hiệu do các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật
điều chỉnh( Một số QHXH về HĐDS chưa đượcpháp luật dự liệu, chưa có QPPL
điều chỉnh,nên việc giao kết hợp đồng không có cơ sở pháp lý ), nói cách khác,
các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật dân sự nói chung, pháp
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
9
luật về HĐDS nói riêng dự liệu đến, và cũng chưa có một qui phạm pháp luật
nào khác đề cập, chẳng hạn : hợp đồng mang bầu thuê, tặng cho trứng, ADN,
hay các loại HĐDS ký qua fax, giao kết bằng thư điện tử . . .
1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật về HĐDS ( Có PL điều chỉnh, nhưng
việc giao kết hợp đồng không tuân thủ hoặc vi phạm PL )
Thực trạng vô hiệu này hiện không phải là vấn đề cơ bản, bức xúc trong dư
luận, thế nhưng đây là tồn tại vi phạm nghiêm trọng pháp luật dân sự. Mặc dù
những quan hệ về HĐDS này đã được rất nhiều chế định luật, ngành luật tương
đối hoàn thiện, chi tiết, đầy đủ điều chỉnh, tuy nhiên với nhiều nguyên do khác
nhau, khách quan có, chủ quan có, thêm vào đó là sự vận động phát triển phức tạp
của cơ chế thị trường đã tạo nên tồn tại phong phú và đa dạng về HĐDS vô hiệu,
trong trường hợp này gồm cả những HĐDS vô hiệu một phần, HĐDS vô hiệu toàn
bộ, HĐDS vô hiệu về nội dung, vô hiệu về hình thức.
1.1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật HĐDS về nội dung
Đối với các HĐDS vô hiệu này là các điều khoản khác nhau trong hợp đồng
không tuân thủ theo qui định pháp luật hoặc vi phạm pháp luật HĐDS, hoặc thiếu
các điều khoản cơ bản mà qui định pháp luật HĐDS bắt buộc cần phải có..., chẳng
hạn : đối tượng giao kết của hợp đồng mua bán là tài sản không thuộc sở hữu của
bên bán, hoặc là tài sản thuộc sở chung của vợ, chồng, trong hợp đồng vay tài sản
thì lãi suất cho vay lại quá cao, các HĐDS về chuyển nhượng đất thì QSDĐ được
chuyển nhượng sai mục đích sử dụng... , phổ biến có các HĐDS vô hiệu trong các
trường hợp:
Các HĐ DS vô hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức
xã hội ( Đ 137_BLDS )
HĐDS vô hiệu này là giao dịch dân sự vô hiệu được qui định tại điều137 Bô
luật dân sự. Đây là thực trạng hợp đồng vô hiệu ẩn, nghĩa là các hợp đồng vô hiệu
này không được lưu giữ, thông kê tại TAND hoặc cơ quan có thẩm quyền, nhưng
qua số liệu thống kê xã hội học, thì đây lại là một con số đáng quan tâm
Các HĐDS này là các thoả thuận mua bán hàng hoá quốc cấm, như : ma tuý,
đồ cổ, động thực vật rừng cấm săn bắt, mua bán ; các thoả thuận về vay tài sản với
lãi suất cao ; các hợp đồng mua bán, tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp
nhưng người được nhận QSDĐ lại không có nhu cầu sử dụng đất theo qui định
luật đất đai 1993 ; Chuyển nhượng Quyền SD đất không có hợp đồng...
+Các hợp đồng vay tài sản lãi suất cao
Tiểu luận tốt nghiệp HĐDS vô hiệu - Thực trạng và giải pháp
.
SVTH : Bùi Lê Duy Trang .
10
Xuất phát từ nhu cầu thường ngày vốn sản xuất, kinh doanh, do ốm đau, cưới
sinh, các chủ thể có yêu cầu vay mượn nhanh chóng ( vay nóng ), thủ tục đơn
giản, tiện lợi, nên các bên đã giao kết hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân
với nhau, khi đó thủ tục vay đơn giản, vốn vay cập nhật, đáp ứng kịp thời
theo yêu cầu, nếu hợp đồng vay có thế chấp thì không cần công chứng ,
chứng thực, ngược lại lãi suất vay thường cao hơn rất nhiều so với qui định
lãi suất tối đa mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định ( thông thường 2%
đến 3% trên 1 ngày 1 ngày, thậm chí lên đến 10% đến 15% trên 1 tháng ) .
+Các hợp đồng mua bán vi phạm pháp luật
Hiện nay trên địa bàn Gia Lai nói riêng, khu vực các tỉnh tây nguyên, miền
núi nói chung đang diễn ra tình trạng mua bán xe máy, khai thác gỗ trái phép
một cách ồ ạc . Do đặc thù nền kinh tế ở những địa phương này là sản xuất
nông nghiệp, làm nương rẫy , khai thác rừng, kinh doanh gỗ, trong khi đó
lãnh thổ gần biên gới, đường xá, địa hình là các đường dã chiến, đường mòn,
sình lầy, đồi dốc dẫn đến nhu cầu về các loại phương tiện vận tải rẻ, động cơ
mạnh, để lưu thông trên các đường rừng núi, dốc trơn; Đáp ứng các yêu cầu
đó chỉ có những loại xe như : Citi Hàn Quốc, DH, " xe 67 " của Nhật, có điều
tồn tại ở đây là hầu hết những xe này đều có nguồn gốc nhập lậu,không có kê
khai đóng thuế Hải quan, dẫn đến các hợp đồng mua bán xe dạng này rất đơn
giản, các bên mua bán với nhau bằn