1.Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân ,hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay thì hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của hợp đồng dân sự, pháp luật Việt Nam sớm đã có những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Cụ thể đó là từ hợp đồng dân sự 1991, bộ luật dân sự 1995 đã có những quy định cụ thể điều chỉnh về hợp đồng dân sự, và cho đến nay bộ luật dân sự 2005 được sửa đổi bổ sung bộ luật dân sự 1995 thì hợp đồng dân sự được xem xét một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 1/1/2006 đã tạo ra hành lang pháp lý cho giao dịch dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp, và tư pháp của nhà làm luật. Bộ luật dân sự 2005 đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện, cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định trong các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế_xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế xã hội, và việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức và đòi hỏi pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự riêng phải hoàn thiện để đáp ứng các nhu cầu thực tế xảy ra. Hơn nữa các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ ngày càng phức tạp thì đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện đẻ giải quyết triệt để.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương cho thấy các tranh chấp hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy để giải quyết các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra là “liệu có tồn tại hợp đồng không? Và “hợp đồng có hiệu lực không?” để từ đó xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất của ngành tòa án. Có nhiều vụ án đã được xét xử nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc, nhiều quan điểm khác nhau gây nhiều tranh luận phức tạp. Chính vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài “ Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý” nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy định của bộ luật dân sự 2005 về yếu tố vô hiệu hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu cũng như thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương_tỉnh Nghệ An để từ đó đưa ra mốt số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật.
2.Phạm vi và mục đích nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn xác định, xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài lấy quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở và phương pháp luận để nghiên cứu đề tài. Ngoài ra phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để làm rõ vấn đề.
4 Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung được chia làm 2 chương.
Chương 1:Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý theo phâp luật dân sự.
Chương 2 :thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vô hiệu tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương_Tỉnh Nghệ An và những kiến nghị nâng cao hiệu quả.
21 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3913 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý, thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vô hiệu tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU.
1.Tính cấp thiết và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân ,hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay thì hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của hợp đồng dân sự, pháp luật Việt Nam sớm đã có những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Cụ thể đó là từ hợp đồng dân sự 1991, bộ luật dân sự 1995 đã có những quy định cụ thể điều chỉnh về hợp đồng dân sự, và cho đến nay bộ luật dân sự 2005 được sửa đổi bổ sung bộ luật dân sự 1995 thì hợp đồng dân sự được xem xét một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ luật dân sự 2005 được quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 1/1/2006 đã tạo ra hành lang pháp lý cho giao dịch dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp, và tư pháp của nhà làm luật. Bộ luật dân sự 2005 đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện, cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định trong các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế_xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế xã hội, và việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức và đòi hỏi pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự riêng phải hoàn thiện để đáp ứng các nhu cầu thực tế xảy ra. Hơn nữa các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ ngày càng phức tạp thì đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện đẻ giải quyết triệt để.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương cho thấy các tranh chấp hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy để giải quyết các tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra là “liệu có tồn tại hợp đồng không? Và “hợp đồng có hiệu lực không?” để từ đó xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất của ngành tòa án. Có nhiều vụ án đã được xét xử nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc, nhiều quan điểm khác nhau gây nhiều tranh luận phức tạp. Chính vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài “ Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý” nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy định của bộ luật dân sự 2005 về yếu tố vô hiệu hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu cũng như thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương_tỉnh Nghệ An để từ đó đưa ra mốt số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật.
2.Phạm vi và mục đích nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn xác định, xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài lấy quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở và phương pháp luận để nghiên cứu đề tài. Ngoài ra phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để làm rõ vấn đề.
4 Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung được chia làm 2 chương.Chương 1:Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý theo phâp luật dân sự.Chương 2 :thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vô hiệu tại tòa án nhân dân huyện Thanh Chương_Tỉnh Nghệ An và những kiến nghị nâng cao hiệu quả.
CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
Khái niệm hợp đồng vô hiệu
Điều 388 BLDS 2005 quy định khái niệm hợp đồng dân sự khái quát như sau : “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập và thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Như vậy, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ xác định là sự thỏa thuận khi cam kết các bên thực sự phù hợp với mong muốn của họ. Nguyên tắc này tồn tại trong pháp luật hợp đồng của các nước. Hợp đồng xác lập do bi đe dọa lừa dối, nhầm lẫn,… là không phù hợp với mong muốn của các bên. Việc xác định các bên có mong muốn thực sự khi tham gia vào quan hệ hợp đồng trong thực tiễn hết sức khó khăn.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự là tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì phải tuân theo các quy định này. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Một hợp đồng được coi là có hiệu lực khi pháp lý khi đảm bảo các điều kiện được quy định tài Điều 122 BLDS. Điều kiện thứ nhất là người tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự.Thuật ngữ “ Người” ở đây được hiểu là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Các chủ thể này phải có đủ tư cách chủ thể theo quy định của pháp luật dân sự. Điều kiện thứ hai là mục đích và nội dung của hợp đồng không vi pham điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Trong trường hợp hợp đồng có mục đích và nội dung vi phạm quy định của pháp luật dân sự nói riêng, pháp luật nói chung hoặc trái đạo đức xã hội thì không được thừa nhận, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.Ví dụ mua bán tài sản pháp luật cấm( mua bán đất đai, ma túy), cho vay tiền để đánh bạc, đòi các khoản tiền do việc bán dâm, đánh bạc mang lại. Điều kiện thứ ba là Người tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Bản chất của quan hệ dân sự mang yếu tố ý chí, đó là sự thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Do vậy, muốn xác định được các chủ thể có tự nguyện hay không cần dựa vào sự thống nhất của hai yếu tố: ý chí và bày tỏ ý chí. Đây là hai mặt của một vấn đề có quan hệ khăng khít với nhau. Sự tự nguyện hoàn toàn đó chính là sự thống nhất ý chí bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài, chỉ khi biểu lộ ý chí ra bên ngoài phản ánh khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của chủ thể mới coi là tự nguyện. Điều kiện về hình thức chỉ có hiệu lực khi pháp luật có qui định phải đảm bảo điều kiện hình thức.
Bên cạnh đó Điều 127 BLDS 2005 qui định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Như vậy hợp đồng vô hiệu là hợp đồng vi phạm các điều kiện được qui định tại điều 121 BLDS. Đó là các hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Các loại hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Hợp đồng này vô hiệu ngay từ thời điểm giao kết không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Các bên tham gia vào hợp đồng có thể biết hoặc không biết mình đã tham gia vào hợp đồng trái pháp luật. tùy theo tính chất và mức độ vi phạm thì tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu xung công quy nhà nước.
Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình; nếu chỉ một bên có lỗi thì bên đó phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
Hợp đồng vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện.
Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
Là hợp đồng nhằm che giấu một hợp đồng dân sự khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực nếu hợp đồng đó tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực được qui định tại Đ121 BLDS trừ trường hợp hợp đồng đó không nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên thì cũng vô hiệu. Chẳng hạn: hai bên xác lập hợp đông mua bán tài sản, nhưng thực chất là tặng cho (còn là hợp đồng giả cách) thì hợp đồng tặng cho vẫn có giá trị pháp lí hoặc trường hợp để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Hai bên xác lập hợp đồng mua bán tài sản mà không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán tài sản (còn gọi là hợp đồng tưởng tượng). Như vậy giả tạo còn được hiểu là không có sự giả tạo và thống nhất ý chí giữa các bên nhằm làm phát sinh một quan hệ hợp đồng thực tế mà những hợp đồng này thường nhằm mục đích che giấu trốn tránh pháp luật
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Là trường hợp các bên hình dung sai về chủ thể hoặc nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch mà gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia. Do nhầm lẫn mà mất đi tính thỏa thuận không phải là mong muốn đạt tới. nhầm lẫn có thể dưới những dạng sau: nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng so hình dung sai về chất lượng, nhầm lẫn về đối tượng giá cả (bên bán hiểu là đô la Mỹ, bên mua lại tưởng đô la Hồng Kong). Nguyên nhân của sự nhầm lẫn thường do các bên thiếu sự rõ ràng về các điều khoản của hợp đồng, hoặc do kém hiểu biết về đối tượng của giao dịch nhất là đối tượng liên quan đến kỹ thuật.
Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối đe dọa.
Lừa dối là do hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch. Do vậy, khác với nhầm lẫn thì lừa dối do thủ đoạn cố ý của một bên làm cho bên kia tin tưởng nên thúc đẩy xác lập giao dịch dân sự. Tuy nhiên việc xác định lừa dối trong thực tiễn hết sức khó khăn thông thường dựa vào các căn cứ sau: có sự giới thiệu và có sự sai lệch trong sự giới thiệu đó; người giới thiệu biết sự sai lệch nhưng bỏ qua sự thật; người nghe không biết sự sai lệch nên tin vào sự giới thiệu; có thiệt hại xảy ra của một bên do sự giới thiệu.
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý có ý thức của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện hợp đồng nhằm tránh những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích. Hợp đồng xác lập do bị đe dọa không phù hợp với lợi ích của bên bị đe dọa, nói cách khác thiếu sự thể hiện ý chí đích thực của các chủ thể tham gia. Các căn cứ để xác đinh hợp đồng có sự đe dọa bao gồm: có sự sợ hãi (về thể chất hoặc tinh thần); có hành vi cố ý đe dọa của một bên; sự đe dọa là bất hợp pháp
2.3. Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện (Đ 130 BLDS).
Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì pháp luật qui định người đại diên theo pháp luật xác lập thực hiện hoặc phải có đồng ý của người đại diện theo pháp luật (trừ trường hợp pháp luật có qui định tham gia giao dịch dân sự có giá trị nhỏ). Nếu trong trường hợp trên mà giao dịch dân sự mà tham gia liên quan đến tài sản không có người đại diện theo pháp luật thì có thể vô hiệu
2.4. Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu (Đ133 BLDS 2005).
Trong tình trạng bị kích thích tinh thần như bị say rượu, bị mộng du… người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
2.5. Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ về hình thức.
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì phải tuân theo các quy định này. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức hợp đồng dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì hợp đồng vô hiệu.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
Theo Điều 137 Khoản 2 BLDS sự vô hiệu của hợp đồng dẫn đến hậu quả là không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 137 BLDS 2005 bao gồm: “ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Thứ nhất: Chấm dứt.
Theo Điều 137 BLDS, “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”. Về nguyên tắc BLDS năm 2005 và BLDS năm 1995 không có thay đổi về hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bởi theo Điều 146 BLDS năm 1995, “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập”. Như vậy, khi giao dịch dân sự vô hiệu quyền và nghĩa vụ của mỗi bên không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nếu hợp đồng mới xác lập chưa thực hiện thì các bên không thực hiện, còn trong trường hợp đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện nữa. Tuy nhiên, trong vụ việc đang nghiên cứu, hợp đồng đã được thực hiện. Do đó, cần phải hoàn trả lại tài sản đã nhận.
Thứ hai: Hoàn trả lại tài sản.
Vẫn theo Điều 137 BLDS, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Về nguyên tắc, BLDS năm 2005 và BLDS năm 1995 không có thay đổi. Bên nhận tài sản phải có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đã nhận.
Thứ ba: Khôi phục tình trạng ban đầu.
Theo BLDS, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Nhìn chung khái niệm “khôi phục lại tình trạng ban đầu” và “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” là giống nhau. Nhưng phân tích kỹ thì đây là hai phạm trù khác nhau. Hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chỉ là một hoàn cảnh của việc khôi phục lại tình trạng ban đầu. Đôi khi hoàn trả cho nhau những gì đã nhận không đủ để khôi phục lại tình trạng ban đầu. Trong một số trường hợp, trước khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, một bên đã khai thác, xây dựng bổ sung trên tài sản có tranh chấp. Trong trường hợp này khôi phục lại tình trạng ban đầu như thế nào?
Khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, theo Điều 137 BLDS, “bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Đây không phải là điều mới của BLDS năm 2005 vì nguyên tắc này cũng đã tồn tại trong BLDS năm 1995. BLDS quy định vấn đề bồi thường thiệt hại trong phần “xong” này là không thuyết phục. Với cách quy định như vậy, chúng ta có thể nghĩ rằng vấn đề bồi thường chỉ có thể xuất hiện khi hợp đồng vô hiệu. Trong thực tế, vấn đề bồi thường thiệt hại hoàn toàn có thể được giải quyết trong khi đó hợp đồng không bị tuyên bố vô hiệu.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
THANH CHƯƠNG - TỈNH NGHỆ AN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ.
2.1. Tình hình tranh chấp hợp đồng vô hiệu .
Hiện nay có nhiều hợp đồng được ký kết một cách phổ biến nhưng rủi ro lại không ít. Trong những năm gần đây tòa án nhân dân huyện Thanh Chương_ Nghệ An đã thụ lý nhiều tranh chấp về hợp đồng dân sự, có nhiều tranh chấp rất phức tạp, nhất là các tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. việc áp dụng các các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu để xác định và xử lý hợp đồng vô hiệu trong thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, cần nghiên cứu bổ sung nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao kết hợp đồng.
Từ năm 2005 đến 2010 Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương đã thụ lý và giải quyết 285 vụ tranh chấp dân sự, trong đó có 10 vụ tranh chấp liên quan đến yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, chủ yếu là do vi phạm về hình thức, do nhầm lẫn.... Tuy số lượng tranh chấp hợp đồng vô hiệu không nhiều nhưng thực tế áp dụng các quy định của pháp luật về xác định hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của nó rất phức tạp mà còn nhiều khó khăn.
2.2. Những vướng mắc trong việc xác định và xử lý hợp đồng vô hiệu.
Thực tiễn giải quyết tại tòa án thì vấn đề xác định hợp đồng vô hiệu và giải quyết các hậu quả khi hợp đồng vô hiệu không chỉ thuần túy chỉ căn cứ vào quy định của bộ luật dân sự, mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, như là thời điểm xác lập hợp đồng, sự thỏa thuận của các bên và tình hình thực tế của việc thực hiện hợp đồng...Để hiểu rõ vấn đề này tôi xin đưa ra những trường hợp cụ thể .
Trường hợp thứ nhất: Liên quan đến viêc tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đât và yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu. Năm 1990 vợ chồng ông Đinh Hữu Thước, bà Nguyễn Thị Hợi có mua của hợp tác xã Thanh Văn một nhà máy xay và UBND xã Thanh Văn đã giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng ông Thước, bà Hợi tại địa điểm dặt máy xay đó với diện tích 400 m2. Sau khi mua nhà và nhận đất vợ chồng ông thước bà hợi đã phá nhà máy xay để xây lên đó một căn nhà ba gian. Năm 1991 vợ chồng ông Thước bà Hợi đã đã cho con trai của mình và dâu là Đinh Hữu Thành và Hồ Thị Dần ở để quản lý nhà và đất. Năm 1993 anh Đinh Hữu Thành chết, chị Hồ Thị Dần vẫn sinh sống trong ngôi nhà và trên mảnh vườn ấy. Vào tháng 3 năm 2003 ông Đinh Hữu Thước cũng qua đời, con chung của vợ chồng ông Thước và bà Hợi có hiện ba người con chung là Minh, Phúc, Hạnh.
Tháng 3 năm 2006 chị Dần đã tự ý đập phá ngôi nhà ba gian trước đây ông Thước bà Hợi đã xây dựng, cắt mảnh vườn nói trên chuyển nhượng cho Đinh Hữu Hùng trú tại xóm 3 xã Thanh Văn 200 m2. Trước khi chết ông Đinh Hữu Thước và Đinh Hữu Thành đều không để lại di chúc. Tháng 6 năm 2007 bà Hợi yêu cầu được thừa kế và lấy lại đất và nhà đó, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 200 m2 đất giữa bà Dần với ông Hùng.
Tại bản án 51/2007/DS-ST ngày 02/7/2007, Tòa án nhân dân( TAND) huyện Thanh Chương đã nhận xét :ngôi nhà ba gian và mảnh vườn với diện tích 400 m2 tọa lạc tại vị trí đặt máy xay đã thanh lý ở xã Thanh Văn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1990 là tài sản chung thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Thước và bà Hợi. Việc chị Dần tự ý đập phá và chuyển nhượng 200 m2 đất là vi phạm pháp luật. Về hình thức các bên lại thỏa thuận sang nhượng đất bằng giấy tay mà không có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền là vi phạm điều 689 bộ luật dân