Trong nền kinh tế thị trường, khi mà nền khoa học công nghệ
phát triển, đời sống, kinh tế,văn hoá, xã hội không ngừng nâng cao thì
xây dựng cơ bản đã trở thành một ngành hết sức quan trọng. Sản
phẩm của ngành xây dựng cơ bản là công trình có giá trị lớn , thời
gian sử dụng lâu dài nên rất có ý nghĩa về kinh tế. Bên cạnh đó sản
phẩm xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ do vậy cũng có ý
nghĩa to lớn về văn hoá xã hội, thể hiện được nét đẹp truyền thống.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thước đo trình độ công
nghệ sản xuất và trình độ tổ chức quản lý sản xuất của một doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, hạch
toán đúng chi phí sản xuất, tính đúng gía thành sản phẩm sẽ giúp
doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về thực trạng, khả năng của mình.
Trong hoạt động xây lắp, qua những thông tin về chi phí sản xuất và
gía thành sản phẩm do kế toán cung cấp, người quản lý doanh nghiệp
nắm được giá thành thực tế của từng công trình, hiệu quả hoạt động
sản xuất của từng đội thi công, của từng công trình cũng như của toàn
doanh nghiệp từ đó tiến hành phân tích đánh giá tình hình thực hiện
các định mức chi phí và dự toán chi phí , tình hình sử dụng tài sản, vật
tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản
phẩm. Trên cơ sở đánh giá này, nhà quản lý có được cái nhìn toàn diện
về hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp mình. Qua đó tìm
ra những giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất, phương thức
tổ chức quản lý, những giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất,
phương thức tổ chức quản lý sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá
thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường với mục tiêu
cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
171 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
Đề tài:
“Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng”
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà nền khoa học công nghệ
phát triển, đời sống, kinh tế,văn hoá, xã hội không ngừng nâng cao thì
xây dựng cơ bản đã trở thành một ngành hết sức quan trọng. Sản
phẩm của ngành xây dựng cơ bản là công trình có giá trị lớn , thời
gian sử dụng lâu dài nên rất có ý nghĩa về kinh tế. Bên cạnh đó sản
phẩm xây dựng cơ bản còn thể hiện ý thức thẩm mỹ do vậy cũng có ý
nghĩa to lớn về văn hoá xã hội, thể hiện được nét đẹp truyền thống.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thước đo trình độ công
nghệ sản xuất và trình độ tổ chức quản lý sản xuất của một doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ quản lý kinh tế vĩ mô, hạch
toán đúng chi phí sản xuất, tính đúng gía thành sản phẩm sẽ giúp
doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về thực trạng, khả năng của mình.
Trong hoạt động xây lắp, qua những thông tin về chi phí sản xuất và
gía thành sản phẩm do kế toán cung cấp, người quản lý doanh nghiệp
nắm được giá thành thực tế của từng công trình, hiệu quả hoạt động
sản xuất của từng đội thi công, của từng công trình cũng như của toàn
doanh nghiệp từ đó tiến hành phân tích đánh giá tình hình thực hiện
các định mức chi phí và dự toán chi phí , tình hình sử dụng tài sản, vật
tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản
phẩm. Trên cơ sở đánh giá này, nhà quản lý có được cái nhìn toàn diện
về hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp mình. Qua đó tìm
ra những giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất, phương thức
tổ chức quản lý, những giải pháp cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất,
phương thức tổ chức quản lý sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá
thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường với mục tiêu
cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận.
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
Nhận thức được vai trò quan trọng của kế toán tập hợp chi phí
và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị xây lắp nên em đã chọn đề
tài: " Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng", mục tiêu của chuyên đề là : vận
dụng kiến thức đã học trên ghế nhà trường vào nghiên cứu công tác
thực tiễn tại công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng, từ đó tìm hiểu, bổ
sung kiến thức thực tế. Nội dung chuyên đề bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chương II: Thực trạng công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm tại công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng.
Chương III: Nhận xét, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện công
tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty Phát triển kỹ thuật xây dựng.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
I/ ĐẶC ĐIỂM SẢN XUẤT XÂY LẮP VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÔNG TÁC
HẠCH TOÁN KẾ TOÁN CỦA ĐƠN VỊ XÂY LẮP
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có vị trí hết sức quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng
mới, xây dựng lại, cải tạo, hiện đại hoá, khôi phục công trình nhà máy, xí
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
nghiệp, đưòng xá, nhà cửa nhằm phục vụ cho dời sống, sản xuất của xã
hội. Chi phí cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
Ngân sách Nhà nước cũng như Ngân sách của doanh nghiệp.
Chi phí xây dựng cơ bản bao gồm: Xây dựng, mua sắm, lắp đặt thiết bị và
chi phí kiến thiết cơ bản khác, trong đó phần xây dựng, lắp đặt do các
doanh nghiệp chuyên về thi công xây lắp đảm nhận thông qua hợp đồng
giao nhận thâù xây lắp. Sản phẩm của các công trình xây lắp là các công
trình đã xây dựng, lắp đặt hoàn thành có thể đưa vào sử dụng phục vụ cho
sản xuất và đời sống.
So với ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có nhũng nét đặc thù
riêng biệt thể hiện ở sản phẩm và quá trình sản xuất. Điều này có ảnh
hưởng đến công tác hạch toán kế toán của ngành. Cụ thể:
Sản phẩm xây lắp mang tính riêng lẻ, đơn chiếc. Mỗi sản phẩm xấy lắp có
yêu cầu về mặt thiết kế kỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng
khác nhau. Vì vậy , mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu tổ chức quản
lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với từng công trình cụ
thể, có như vậy việc sản xuất mới mang lại hiệu quả cao.
Do sản phẩm có tính đơn chiếc như vậy nên chi phí sản xuất cho từng
công trình sẽ khác nhau. Do vậy, việc tập hợp chi phí, tính giá thành sản
phẫm xây lắp chưa tạo ra sản phẩm xây lắp cũng đựoc tính cho từng sản
phẩm xây lắp riêng biệt. Thông thường sản phẩm xây lắp theo đơn đặt
hàng nên ít phát sinh chi phí trong quá trình lưu thông.
Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công kéo
dài. Trong quá trình xây lắp chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử
dụng nhiều vật tư, nhân lực, vốn. Do đó, việc quản lý đòi hỏi phải lập dự
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
toán thiết kế và thi công để theo dõi, kiểm tra quá trình sản xuất, thi công,
đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm đảm bảo chất lượng công trình.
Do thời gian thi công kéo dài nên kỳ tính giá thành thường không xác
định hàng tháng như trong sản xuất Công nghiệp mà xác định theo thời
điểm khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay thực hiện bàn
giao thanh toán theo giai đoạn quy ước, tuỳ thuộc vào kết cấu kỹ thuật và
khả năng về vốn của đơn vị xây lắp.
Doanh nghiệp xây lắp thường có địa bàn rộng, sản phẩm xây lắp cố định
tại nơi sản xuất. các điều kiện để sản xuất ( xe, máy, nhân công, thiết bị,
phương tiện thi công) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm,. Đặc
điểm này làm cho công tác quản lý rất phức tạp ảnh hưởng của điều kiện
tự nhiên thời tiết. Thông thường các doanh nghiệp xây lắp sử dụng lực
lượng lao động thuê ngoài tại chỗ, nơi thi công công trình để giảm bớt chi
phí di dời.
Công tác kế toán phải tổ chức tốt khâu hạch toán ban đầu, thường xuyên
kiểm kê vật tư tài sản nhằm phát hiện những thiếu hụt, hư hỏng để có
biện pháp xử lý kịp thời.
Sản xuất xây dựng cơ bản thường diễn ra ngoài trời, chịu sự tác động trực
tiếp của thiên nhiên, thời tiết nên việc thi công ở mức độ nào đó mang
tính thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần quản lý lao
động, vật tư chặt chẽ, thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều môi trường,
thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh hưởng
đến chất lượng công trình có thể phải đi làm lại và các thiệt hại phát sinh
do ngừng sản xuất. Doanh nghiệp cần có chế độ điều độ cho phù hợp,
nhằm tiết kiệm chi phí, hạ gía thành.
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
II/ BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
1/ Chi phí sản xuất
1.1. Khái niệm và bản chất.
Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây dựng cơ bản
muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì cần
phải có cả 3 yếu tố cơ bản của sản xuất, đó là: Tài liệu lao động, đối
tượng lao động và sức lao động. Các yếu tố này tham gia vào quá trình
sản xuất tạo nên các loại chi phí tương ứng.Chi phí về sử dụng tài liệu lao
động, đối tượng lao động và thù lao lao động.
Vậy chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình sản xuất kinh
doanh mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất
trong một kỳ kinh doanh.
Tuy nhiên, để hiểu đúng chi phí sản xuất cần phải phân biệt giữa chi phí
và chi tiêu. Chi phí là sự dịch chuyển vốn và giá trị của các yếu tố sản
xuất vào đối tượng tính chi phí, do đó chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch
toán, những chi phí có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra
trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi phí chi ra trong kỳ hạch toán. Chi
tiêu thể hiện sự giảm vốn, vật tư, tài sản của doanh nghiệp bất kể nó sử
dụng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao
gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp, chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh
doanh, chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.
1.2 .Phân loại chi phí.
Chi phí sản xuất kinh doanh có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công việc quản lý. Tuy nhiên
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường phân loại theo các tiêu thức
sau:
1.2.1 Phân loại theo yếu tố chi phí.
Theo cách phân loại nay, căn cứ vào tính chất nội dung kinh tế của chi
phí sản xuất để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí bao gồm
những chi phí có cùng nội dung kinh tế, không xét đến công dụng cụ thể,
nội dung phát sinh.
Đối với doanh nghiệp xây lắp, toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được
chia thành các yếu tố:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Xi măng, cát, gạch sắt thép và các vật
liệu phụ như que hàn, ve...
- Chi phí công cụ dụng cụ sản xuất: quần áo bảo hộ lao động, mặt nạ,
hàn, ván, khuôn...
- Chi phí nhiên liệu: Xăng, dầu mỡ, khí nén...
- Chi phí lương và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp
sản xuất và gián tiếp.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao tài
sản cố định sử dụng cho sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền phải trả về các loại dịch vụ mua
ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm các chi phí khác dùng cho hoạt động
sản xuất ngoài các yếu tố chi phí đã nêu trên.
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế có tác dụng lớn trong
việc quản lý chi phí sản xuất. Nó cho biết kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố
chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí
sản xuất và lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch, quỹ tiền lương, tính
toán nhu cầu vốn định mức.
Đối với kế toán nó là cơ sở để tổ chức tập hợp chi phí sản xuất theo yếu
tố, giám đốc tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất đồng thời là cơ
sở tính toán thu nhập quốc dân, đánh giá tình hình tăng năng suất lao
động.
1.2.2 Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
xây lắp.
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí
trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản
mục chi phí bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng,
không phân biệt chi phí có nội dung kinh tế như thế nào.
Thông thường, chi phí sản xuất chia thành 3 khoản mục chính: chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung.
Nhưng do đặc thù của sản xuất xây lắp có chi phí máy thi công lớn và
phức tạp nên chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp được chia thành bốn
khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là tất cả những nguyên vật liệu chi
phí chi ra để cấu tạo nên thực thể công trình như vật liệu chính (xi măng,
cát, đá, gạch...), các cấu kiện bê tông và các phụ gia khác. Trong khoản
mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp không bao gồm các vật liệu phụ,
nhiên liệu dùng cho máy thi công.
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương chính và các khoản
phụ cấp lưong phải trả cho công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng xây
lắp, công nhân phục vụ xây lắp kể cả công nhân bốc dỡ vật liệu trong
phạm vi mặt bằng xây lắp và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu gọn hiện
trưòng thi công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay thuê
ngoài. Khoản mục nhân công trực tiếp không bao gồm tiền lương phụ và
các khoản trích theo lường.
- Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí trực tiếp liên quan tới
việc sử dụng máy để xây dựng hoặc lắp dặt công trình, bao gồm: chi phí
về vật liệu trong máy thi công, chi phí nhân viên điều khiển máy ( chỉ có
tiền lao động chính không bao gồm tiền lương phụ và các khoản trích
theo lương), chi phí khấu hao máy thi công, chi phí mua ngoài sử dụng
cho máy thi côngvà các khoản chi phí máy thi công khác.
- Chi phí sản xuất chung: là chi phí phục vụ cho việc quản lý tại đội,
công trình và những chi phí sản xuất chung khác không thể hạch toán trực
tiếp cho công trình, bao gồm: chi phí nhân viên quản lý đội( đội trưởng,
đội phó ... ) và các khoản tiền lương phụ, trích theo lương của công nhân
sản xuất, nhân viên điều khiển máy thi công, chi phí vật liệu dùng cho
đội, chi phí công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao tài sản cố định, ngoài chi
phí khấu hao của máy thi công, chi phí dịch vụ mua ngoài dùng chung
cho đội và các khoản chi phí bằng tiền khác.
Theo cách phân loại này giúp ta biết được cơ cấu khoản mục tính giá
thánh sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp , dồng
thời giúp kế toán sử dụng tài khoản phù hợp.
Ngoài các khoản mục chi phí cấu thành trong gía thành sản phẩm xây lắp
như trên, nếu xét theo tiêu thức chỉ tiêu gía thành đầy đủ thì còn khoản
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
mục chi phí quản lý doanh nghiệp kết hợp với giá thành nên chỉ tiêu gía
thành toàn bộ của sản phẩm.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là các khoản chi phí chi cho bộ phận
máy quản lý điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí về lương nhân viên bộ
phận quản lý, chi phí vật liệu văn phòng, công cụ lao động, khấu hao tài
sản cố định dùng cho quản lý doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài và
các chi phí bằng tiền khác phát sinh trong quản lý doanh nghiệp.
Ngoài hai cách phân loại trên, chi phí sản xuất kinh doanh còn được
phân loại theo phương thức kết chuyển chi phí ( chi phí sản xuất và chi
phí thời kỳ), phân loại theo quan hệ chi phí với khối lượng công việc, sản
phẩm hoàn thành( biến phí và định phí)...tuỳ theo yêu cầu quản lý và đặc
điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
2. Giá thành
2.1 Khái niệm và bản chất
Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trinh thống nhất giữa hai mặt hao
phí sản xuất và kết quả sản xuất. Để đánh giá chất lượng sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thì chi phí bỏ ra phải được xem xét trong mối
quan hệ chặt chẽ với giá thành ( kết quả sản xuất ).
Giá thành sản phẩm là biẻu hiện bằng tiền của các khoản hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công việc, sản
phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp phản ánh lượng gía trị của những hao phí
lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm xây lắp.
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
2.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng
như yêu cầu xây dựng giá cả sản phẩm xây lắp, giá thành được xem xét
dưới nhiều góc độ, nhiều vị trí tính toán khác nhau.
Giá thành sản phẩm xây lắp được phân loại như sau:
2.2.1 Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành giá
thành dự toán, gía thành kế hoạch, giá thành thực tế.
- Giá thành dự toán: Là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành khối
lượng xây lắp công trình. Giá thành này được xác định trên cơ sở các quy
định của Nhà nước về việc quản lý giá xây dựng các công trình .
Giá thành dự toán = giá thành dự toán - Lợi nhuận định mức
Trong đó:
Giá thành dự toán là chỉ tiêu dùng làm căn cứ cho doanh nghiệp xây lắp
xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt máy móc thiết bị... Nó bao gồm
các chi trực tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định mức.
+ Lợi nhuận định mức là chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã
hội do ngành xây dựng cơ bản tạo ra (bao gồm thuế và lãi).
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành xác định xuất phát từ điều kiện cụ thể
của từng đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức và
đơn giá áp dụng trong đơn vị.
Giá thành kế hoạch = giá thành dự toán - mức hạ giá thành
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
Giá thành kế hoạch sản phẩm xây lắp được lập dựa vào chi phí nội bộ của
doanh nghiệp xây lắp. Về nguyên tắc định mức nội bộ phải tiên tiến hơn
định mức kế hoạch, phản ánh mức độ quản lý của doanh nghiệp.
- Giá thành xây lắp thực tế: Là biểu hiện bằng tiền của tất cả chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để hình thành một đối tượng xây lắp nhất định. Giá
thành sản phẩm xây lắp thực tế không chỉ bao gồm những chi phí thực tế
phát sinh như chi phí thiệt hại do phá đi làm lại, thiệt hại do ngừng sản
xuất, mất mát, hao hụt vật tư... do những nguyên nhân khách quan hoặc
chủ quan của doanh nghiệp.
Thông thường gía thành thực tế giá thành sản phẩm xây lắp được chia
thành:
+ Giá thành công tác xây lắp thực tế: Phản ánh giá thành một khối lượng
công tác xây lắp đạt tới điểm dừng kỹ thuật nhất định tính theo kỳ( tháng,
quý, năm) Nó cho phép chúng ta xác định kịp thời chi phí phát sinh, phát
hiện những nguyên nhân tăng, giảm chi phí và kịp thời điều chỉnh cho
giai đoạn sau.
+ Giá thành hạng mục công trình hoàn thành: là toàn bộ chi phí chi ra để
tiến hành thi công công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công
đến khi hoàn thành đưa vào sử dụng và được bên chủ đầu tư chấp nhận.
Về nguyên tắc, mối quan hệ giữa 3 loại giá thành trên phải đảm bảo:
Giá thành dự toán Giá thành kế hoạch Giá thành thực tế
Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép đánh giá
chính xác trình độ quản lý của doanh nghiệp trong mối quan hệ với các
doanh nghiệp xây lắp khác. Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
kế hoạch cho phép đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây
lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất và trình độ tổ chức quản lý.
2.2.2 Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí.
Theo cách phân loại này giá thành được phân thành 2 loại
- Giá thành sản xuất (hay còn gọi là giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu
phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan tới quá trình sản xuất
chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung.
Giá thành sản xuất được sử dụng để ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành,
là căn cứ để tính giá vốn hàng bán và lãi gộp của doanh nghiệp.
Giá thành sản xuất được tính theo công thức:
Tổng giá thành sản phẩm xây lắp = Chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ.
- Giá thành tiêu thụ ( Giá thành toàn bộ): Bao gồm toàn bộ giá thành sản
xuất sản phẩm xây lắp cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp đã được phân bổ cho sản phẩm đó.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được xác định sau khi khối lượng sản
phẩm công việc, lao vụ, dịch vụ đã được thực hiện. Đây là cơ sở để doanh
nghiệp tính lãi trước thuế.
Ngoài cách phân loại trên, trong xây dựng cơ bản còn sử dụng 2 chỉ tiêu
tính giá thành sau:
- Giá đấu thầu xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp do chủ đầu tư
đưa ra dể chủ doanh nghiệp căn cứ vào đó tính giá thành sản phẩm của
Trường CĐ Kinh tế KTCNI Báo cáo Tổng hợp
NGUYỄN THỊ NHUNG Kế toán - K10 - CĐ
mình ( còn gọi là giá dự thầu công tác xây lắp). Giá đấu thầu xây lắp do
chủ đầu tư đưa ra về nguyên tắc chỉ bằng gía dự toán