1.1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay, các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Hàng loạt công ty nước ngoài đã, đang xây dựng hệ thống phân phối theo mô hình kinh doanh theo mạng (MLM) tại Việt Nam với hệ thống phân phối của họ là các công ty có quốc tịch Việt Nam hay những công ty do chính họ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ quản lý, bên cạnh những công ty MLM xuất hiện trong bối cảnh trên còn có những công ty “made in Việt Nam”, và nhìn chung những công ty này, tồn tại như là thế hệ doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực MLM ở nước ta, đang không ngừng lớn mạnh, nhiều công ty trong số đó có cả mạng lưới phân phối quy mô toàn quốc với số lượng người tham gia rất lớn bao gồm đủ mọi thành phần, đủ lứa tuổi và doanh số bán của chúng là những con số khổng lồ. Vì vậy và vì bản chất của MLM mà ta sẽ phân tích kỹ ở phần sau, MLM tuy xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu nhưng nó có những ảnh hưởng rất đáng quan tâm đến nền kinh tế.
MLM là tốt hay xấu? Đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm khi họ có suy nghĩ rằng họ có nên gia nhập vào loại hình kinh doanh này hay không
Hiện nay, các hoạt động kiểu MLM có thể diễn ra bất cứ nơi đâu. Đặc biệt, TP Cần Thơ nay được nhiều người biết như là một thị trường mới nổi nhưng đã gần như sắp bùng nổ trong lĩnh vực kinh doanh theo mạng. Các hoạt động tiếp thị luôn cực kỳ sôi nổi, bên cạnh đó số lượng người tham gia vào lĩnh vực này ngày càng nhiều do sự chiêu mộ rầm rộ của các công ty MLM. Những điều này tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đến lao động và tác động hoàn toàn không nhỏ đến đội ngũ sinh viên. Những vấn đề khá khái quát nêu trên cho thấy rằng MLM là mô hình kinh doanh tuy khá mới mẻ nhưng nó đang tồn tại như là một vấn đề nhạy cảm và nóng bỏng.
Vì vậy, MLM là mô hình kinh doanh cần được quan tâm thích đáng và việc nghiên cứu về nó là cần thiết. Việc làm rõ bản chất và thực trạng của MLM sẽ giúp cho nhiều người có thể nhìn rõ hơn, trước hết là bản chất của nó, và công việc thuộc lĩnh vực MLM mà mình đã chọn hoặc đang tìm hiểu, ngoài ra, từ quá trình nghiên cứu có thể đưa ra những phương hướng phát triển mô hình MLM đúng pháp luật đóng góp vào sự phát triển kinh tế nước nhà và cũng có thể đưa ra các giải pháp khắc phục những mặt tiêu cực để trả MLM về một loại hình kinh doanh lành mạnh thật sự có lợi cho người tham gia vào nó.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phản ảnh tình hình kinh doanh theo mạng ở Việt Nam nói chung, TP Cần Thơ nói riêng. Từ đó đề ra giải pháp góp phần phát huy lợi thế của MLM vào phát triển kinh tế, khắc phục hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình kinh doanh này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phân tích, làm rõ mô hình MLM.
Phản ánh khái quát về tình hình MLM tại Việt Nam và thực trạng MLM tại TP Cần Thơ.
Đề xuất phương hướng, tận dụng và phát huy thế mạnh của MLM, giải pháp khắc phục những hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình này nhằm trả MLM hiện tại về một mô hình kinh doanh lành mạnh như luật định.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Kinh doanh theo mạng hay MLM là gì?
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có cần loại hình kinh doanh như MLM không?
Ở Việt Nam nói chung vàTP Cần Thơ nói riêng, MLM đã, đang và sẽ phát triển như thế nào?
Những ưu điểm, hạn chế và mặt tiêu cực của MLM là gì và người ta nghĩ gì về nó? Biện pháp khai thác ưu điểm, khắc phục mặt hạn chế, tiêu cực của nó?
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Xoay quanh việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Về không gian: Nghiên cứu sẽ trình bài khái quát về thực trạng MLM ở Việt Nam và MLM tại TP Cần Thơ.
Về thời gian: Nghiên cứu tập trung vào các năm 2005-2010, ngoài ra, các năm trước 2005 sẽ được trình bày sơ lược.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp luận và phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu
Vận dụng lý thuyết kinh tế vi mô và vĩ mô cùng với thống kê kinh tế, căn cứ vào các văn bản, quy phạm pháp luật để phân tích, làm rõ vấn đề.
1.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Thu thập từ các cơ quan quản lý kinh tế và các cơ quan có liên quan, từ các công ty MLM, từ tài liệu tham khảo, báo chí và internet.
Số liệu sơ cấp: Thu thập trực tiếp từ các đối tượng đang hoạt động trong lĩnh vực MLM và kể cả những người chưa tham gia.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3037 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khái quát về MLM, thực trạng MLM tại Việt Nam nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa như hiện nay, các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Hàng loạt công ty nước ngoài đã, đang xây dựng hệ thống phân phối theo mô hình kinh doanh theo mạng (MLM) tại Việt Nam với hệ thống phân phối của họ là các công ty có quốc tịch Việt Nam hay những công ty do chính họ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ quản lý, bên cạnh những công ty MLM xuất hiện trong bối cảnh trên còn có những công ty “made in Việt Nam”, và nhìn chung những công ty này, tồn tại như là thế hệ doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực MLM ở nước ta, đang không ngừng lớn mạnh, nhiều công ty trong số đó có cả mạng lưới phân phối quy mô toàn quốc với số lượng người tham gia rất lớn bao gồm đủ mọi thành phần, đủ lứa tuổi và doanh số bán của chúng là những con số khổng lồ. Vì vậy và vì bản chất của MLM mà ta sẽ phân tích kỹ ở phần sau, MLM tuy xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu nhưng nó có những ảnh hưởng rất đáng quan tâm đến nền kinh tế.
MLM là tốt hay xấu? Đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm khi họ có suy nghĩ rằng họ có nên gia nhập vào loại hình kinh doanh này hay không
Hiện nay, các hoạt động kiểu MLM có thể diễn ra bất cứ nơi đâu. Đặc biệt, TP Cần Thơ nay được nhiều người biết như là một thị trường mới nổi nhưng đã gần như sắp bùng nổ trong lĩnh vực kinh doanh theo mạng. Các hoạt động tiếp thị luôn cực kỳ sôi nổi, bên cạnh đó số lượng người tham gia vào lĩnh vực này ngày càng nhiều do sự chiêu mộ rầm rộ của các công ty MLM. Những điều này tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đến lao động và tác động hoàn toàn không nhỏ đến đội ngũ sinh viên. Những vấn đề khá khái quát nêu trên cho thấy rằng MLM là mô hình kinh doanh tuy khá mới mẻ nhưng nó đang tồn tại như là một vấn đề nhạy cảm và nóng bỏng.
Vì vậy, MLM là mô hình kinh doanh cần được quan tâm thích đáng và việc nghiên cứu về nó là cần thiết. Việc làm rõ bản chất và thực trạng của MLM sẽ giúp cho nhiều người có thể nhìn rõ hơn, trước hết là bản chất của nó, và công việc thuộc lĩnh vực MLM mà mình đã chọn hoặc đang tìm hiểu, ngoài ra, từ quá trình nghiên cứu có thể đưa ra những phương hướng phát triển mô hình MLM đúng pháp luật đóng góp vào sự phát triển kinh tế nước nhà và cũng có thể đưa ra các giải pháp khắc phục những mặt tiêu cực để trả MLM về một loại hình kinh doanh lành mạnh thật sự có lợi cho người tham gia vào nó.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phản ảnh tình hình kinh doanh theo mạng ở Việt Nam nói chung, TP Cần Thơ nói riêng. Từ đó đề ra giải pháp góp phần phát huy lợi thế của MLM vào phát triển kinh tế, khắc phục hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình kinh doanh này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phân tích, làm rõ mô hình MLM.
Phản ánh khái quát về tình hình MLM tại Việt Nam và thực trạng MLM tại TP Cần Thơ.
Đề xuất phương hướng, tận dụng và phát huy thế mạnh của MLM, giải pháp khắc phục những hạn chế, tiêu cực xuất phát từ mô hình này nhằm trả MLM hiện tại về một mô hình kinh doanh lành mạnh như luật định.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Kinh doanh theo mạng hay MLM là gì?
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có cần loại hình kinh doanh như MLM không?
Ở Việt Nam nói chung vàTP Cần Thơ nói riêng, MLM đã, đang và sẽ phát triển như thế nào?
Những ưu điểm, hạn chế và mặt tiêu cực của MLM là gì và người ta nghĩ gì về nó? Biện pháp khai thác ưu điểm, khắc phục mặt hạn chế, tiêu cực của nó?
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Xoay quanh việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
Về không gian: Nghiên cứu sẽ trình bài khái quát về thực trạng MLM ở Việt Nam và MLM tại TP Cần Thơ.
Về thời gian: Nghiên cứu tập trung vào các năm 2005-2010, ngoài ra, các năm trước 2005 sẽ được trình bày sơ lược.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp luận và phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu
Vận dụng lý thuyết kinh tế vi mô và vĩ mô cùng với thống kê kinh tế, căn cứ vào các văn bản, quy phạm pháp luật để phân tích, làm rõ vấn đề.
1.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Thu thập từ các cơ quan quản lý kinh tế và các cơ quan có liên quan, từ các công ty MLM, từ tài liệu tham khảo, báo chí và internet.
Số liệu sơ cấp: Thu thập trực tiếp từ các đối tượng đang hoạt động trong lĩnh vực MLM và kể cả những người chưa tham gia.
CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ MLM. THỰC TRẠNG MLM TẠI VIỆT NAM NÓI CHUNG, TP CẦN THƠ NÓI RIÊNG
2.1. Khái quát về MLM
2.1.1. MLM là gì và nguyên lý vận hành của nó
2.1.1.1 Khái quát về MLM
Kinh doanh theo mạng viết tắt là MLM-Multi Level Marketing, chỉ một phương thức bán hàng trong đó vấn đề tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm được thực hiện qua một cơ cấu nhiều tầng là các mạng lưới phân phối bao gồm những nhà phân phối (NPP) có nhiệm vụ phân phối hàng hóa đến tay người tiêu dùng và xây dựng mạng lưới phân phối. Những người này hoạt động độc lập và mỗi NPP có thu nhập được tính theo những tỉ lệ nhất định trên doanh số bán hàng của chính NPP và của mạng lưới do NPP này xây dựng.
Ở Việt Nam MLM còn được gọi là bán hàng đa cấp, tiếp thị mạng lưới, hợp tác tiêu thụ…Dù tên gọi là gì thì bản chất của nó cũng không có sự khác biệt so với MLM trên thế giới. Khoản 11 điều 3 Luật Canh Tranh 2005 của Quốc hội nước ta quy định kinh doanh theo mạng như sau:
“Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.”
2.1.1.2. Nguyên lý vận hành
Nguyên lý vận hành của MLM khá đơn giản: Chia sẻ thông tin trực tiếp và phát triển theo cấp số nhân. Mạng lưới phân phối của các công ty MLM sẽ đảm nhận hoàn toàn vai trò chia sẻ thông tin trực tiếp như là một biện pháp hữu hiệu thay thế cho các công cụ tiếp thị, quảng cáo truyền thống: Các NPP sẽ sử dụng sản phẩm của công ty, cảm nhận chất lượng của nó, rồi giới thiệu nó đến mọi người kích thích nhu cầu tiêu thụ.
Nguyên lý phát triển được xây dựng trên nền tảng là chia sẻ thông tin trực tiếp, phát triển theo nghĩa thông thường là phát triển mạng lưới phân phối, nó cũng bao gồm cả việc phát triển thị trường và lượng sản phẩm tiêu thụ. Theo nguyên lý này, mỗi NPP hiện hữu của doanh nghiệp phải xây dựng mạng lưới cho mình bằng cách bảo trợ người mới gia nhập vào mạng lưới phân phối và trở thành người đỡ đầu của người do mình bảo trợ, Người được bảo trợ là tuyến dưới trực tiếp của người đỡ đầu và đương nhiên là NPP của công ty. Mỗi NPP khi đạt chỉ tiêu nhất định do công ty quy định sẽ có quyền bảo trợ nhiều người. Hầu hết NPP đủ tiêu chuẩn không ngừng mở rộng mạng lưới của mình dẫn đến lượng NPP của công ty có thể tăng lên rất nhanh theo một cấp số nhân. Trên lý thuyết, việc NPP thứ nhất bảo trợ một người làm NPP thứ 2, rồi NPP thứ 2 bảo trợ một người làm NPP thứ 3, rồi NPP thứ 3 bảo trợ một người khác nữa, cứ như thế, quá trình này có thể kéo dài vô tận. Chính việc đội ngũ phân phối tăng không ngừng theo cấp số nhân khiến cho thị trường của công ty tăng lên nhanh chóng.
2.1.2. Sơ đồ kinh doanh và sơ đồ trả thưởng
2.1.2.1 Sơ đồ kinh doanh
Mỗi công ty MLM đều có mục đích hàng đầu là phát triền nhanh chóng mạng lưới. Nhưng do đặc thù quản trị và những mục tiêu cụ thể của mỗi công ty mỗi khác nên mỗi công ty thiết kế cho mình một sơ đồ kinh doanh và các NPP của nó dựa vào đó để xây dựng mạng lưới cho mình. Trên thế giới có hàng chục ngàn công ty kinh doanh theo mạng, thì cũng có một số lượng rất lớn sơ đồ kinh doanh, tuy nhiên, chúng là những kết hợp hoặc là những biến tấu của các sơ đồ: Sơ đồ đơn cấp, sơ đồ bậc thang, sơ đồ bậc thang ly khai, sơ đồ ly khai, sơ đồ nhị phân, sơ đồ ma trận, sơ đồ đều tầng. Dưới đây xin giới thiệu 4 sơ đồ phổ biến:
Sơ đồ bậc thang ly khai hay bậc thang thoát ly: Một NPP có thể vươn lên những vị trí cao hơn người đỡ đầu của mình, và hoàn toàn có thể tách rời khỏi mạng lưới của người đỡ đầu nếu anh ta đã đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định về cấp bậc. Doanh số bán hàng của NPP này không còn được tính vào doanh số người đỡ đầu, lúc bấy giờ NPP đã ly khai. Luôn có điều kiện nếu người đỡ đầu đáp ứng sẽ được nhận hoa hồng trên doanh số của nhóm ly khai, điều kiện này thông thường là yêu cầu về chỉ tiêu bán hàng. Sơ đồ bậc thang ly khai được nhiều người đánh giá là kế hoạch trả thưởng tuyệt vời, một NPP thành công có thể được hưởng hoa hồng trên hàng trăm cấp bậc. Nó thúc đẩy các NPP tích cực hoạt động và thăng tiến, nó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa các NPP và tạo động lực cho NPP vươn cao... Vấn đề ở chỗ nó có thể làm việc quản lý trở nên phức tạp, nó kích thích các NPP mua hàng nhiều chỉ để đạt được chỉ tiêu nhận doanh số từ nhóm thoát ly khỏi hệ thống của mình. Đôi khi người đỡ đầu nhận thấy rằng sơ đồ này đầy những bất công khi họ không còn nhận được lợi ích gì từ những nhóm ly khai có thủ lĩnh do mình bảo trợ. Tuy có nhiều hạn chế nhưng sơ đồ bậc thang ly khai được đánh giá là nó có khả năng “biến giấc mơ thành hiện thực” và nó còn tồn tại lâu dài trong ngành MLM.
Sơ đồ ma trận: Sơ đồ này xuất hiện khi máy tính được sử dụng rộng rãi, nó quy định số lượng người tối đa trong tuyến dưới trực tiếp của NPP đồng thời nó cũng quy định số tầng tối đa mà mỗi NPP có thể được hưởng hoa hồng. Như vậy sơ đồ ma trận quy định kích thước tối đa của một mạng lưới phân phối của một NPP. Cụ thể một sơ đồ ma trận m x n quy định mỗi NPP không được phép có quá m người thuộc tuyến dưới trực tiếp và được hưởng hoa hồng tính trên số lượng tầng không vượt quá n. Khi một NPP đã có m người ở tuyến dưới trực tiếp, anh ta vẫn có thể giới thiệu người khác vào mạng lưới của mình nhưng những người này được phân bổ vào những chỗ còn trống trong mạng lưới của ai đó trong tuyến dưới trực tiếp của NPP trên. Đây được gọi là ‘‘công thức trám’’ tự động. Những nhà sáng lập sơ đồ này khẳng định sơ đồ ma trận tạo điều kiện cho tuyến trên hỗ trợ tuyến dưới và duy trì sự năng động của những người tham gia vì họ không muốn mất đi những tuyến dưới “miễn phí” được cung cấp từ tuyến trên của họ. Những người không ủng hộ có quan điểm ngược lại khi cho rằng sơ đồ ma trận mang đến một cách trả thưởng hấp dẫn cho những NPP yếu kém hoặc không làm việc và không công bằng cho các thủ lĩnh bởi “công thức trám” tự động. Thời gian sẽ trả lời trả lời sơ đồ này có thể tồn tại thêm bao lâu.
Sơ đồ nhị phân: Sơ đồ nhị phân thực chất là một sơ đồ ma trận 2 x i, i tiến đến vô cùng. Như vậy mỗi NPP không thể có quá 2 người ở tuyến dưới trực tiếp nhưng được hưởng hoa hồng trên số tầng không hạn chế. Theo sơ đồ này mỗi NPP sẽ có hai nhánh (2 chân) là 2 mạng lưới phân phối của 2 tuyến dưới trực tiếp, NPP được hưởng hoa hồng càng cao khi hai chân có doanh số càng gần bằng nhau. Tính chất của sơ đồ đòi hỏi tuyến trên phải hỗ trợ tuyến dưới nên tạo ra một mạng lưới khá bền vững. Trong một mạng lưới, sơ đồ làm cho người vào trước luôn có lợi hơn người vào sau và người vào sau không thể vượt qua người vào trước. Khuyết điểm nghiêm trọng của nó là những NPP lười biếng có thể chỉ biết trông chờ vào sự trợ giúp của tuyến trên, và hai chân có tốc độ phát triển có thể rất khác nhau nên việc cân đối hai chân là một thách thức thật sự.
Sơ đồ đều tầng: Cho phép NPP có số lượng tuyến dưới trực tiếp là không giới hạn, và NPP muốn đi lên nhất thiết phải hỗ trợ tuyến dưới của mình phát triển. Một NPP nếu muốn thành công phải phát triển không ngừng mạng lưới của mình theo chiều rộng-có tuyến dưới trực tiếp càng nhiều càng tốt và theo chiều sâu-gia tăng số lượng tầng trong mạng lưới của mình. Nhưng việc đạt hiệu quả đồng thời ở hai mục tiêu trên là không dễ dàng. Tính ổn định của sơ đồ này không cao do không có giới hạn về chiều rộng. Nhiều NPP nhận xét rằng sơ đồ này là đất dụng võ cho những NPP tài năng.
Điều quan trọng khi đánh giá sơ đồ kinh doanh, theo các nhà phân tích, cần phải xem xét: Nó có tích hợp ưu thế quản lý và sức mạnh cộng tác? Năng lực NPP được phát huy? Sơ đồ đó có đòi hỏi người đỡ đầu phải hỗ trợ tuyến dưới của mình để cả hai cùng đi lên? Sơ đồ đó có bảo đảm được tính cân bằng hay không, đều kiện cho một sơ đồ cân bằng là nó vừa giữ được những thủ lĩnh giỏi, vừa thu hút các NPP mới, điều này khó đạt được. Tiếp theo, là một vấn đề đáng quan tâm khi người ta nhìn về tương lai của mình khi dừng sự nghiệp MLM được đề cập đến trong khái niệm nghỉ hưu sớm: “Cho đến nay chưa có công ty nào sản sinh ra những thủ lĩnh có thể nghỉ hưu an toàn trên sự nghiệp của họ”, Eric Worre, một doanh nhân thành đạt trong ngành MLM nhận xét.
2.1.2.2. Sơ đồ trả thưởng
Sơ đồ trả thưởng hay kế hoạch trả thưởng, kế hoạch tiếp thị, phụ thuộc vào sơ đồ kinh doanh, nó quy định một cơ chế trả tiền cho NPP, cho biết NPP nhận được hoa hồng là bao nhiêu trên doanh số bán hàng cá nhân (hoa hồng cá nhân) và được nhận những mức hoa hồng là bao nhiêu trên doanh số bán hàng của các tầng dưới trong mạng lưới của NPP (hoa hồng khối lượng). Nó cũng quy định những chỉ tiêu là điều kiện đủ để NPP được thăng cấp bậc và/hoặc để nhận được các phần thưởng giá trị, nó cũng quy định chỉ tiêu mà nếu NPP không đạt thì không được nhận hoa hồng khối lượng.
Thật khó để tìm thấy một công ty nào có kế hoạch trả thưởng mang lại lợi ích xứng đáng cho tất cả NPP vì nó phải đảm bảo rằng công ty thu được lợi nhuận lớn từ việc bán hàng đồng thời phải thể hiện rằng NPP có thể làm giàu trên kế hoạch này. Với những ai đang tìm hiểu về một công ty MLM thì kế hoạch trả thưởng là yếu tố được quan tâm hàng đầu, đối với những NPP thì nó là một kế hoạch mà họ phải căn cứ vào đó để đặt ra mục tiêu phấn đấu. Kế hoạch trả thưởng cũng như sơ đồ kinh doanh luôn là những sơ đồ được công khai.
2.1.3. Đặc điểm chung của các công ty MLM
Thiết kế sơ đồ kinh doanh và áp dụng như một công thức mở xây dựng hệ thống phân phối và sử dụng sơ đồ trả thưởng xác định mức thù lao và thăng hạng cho NPP, thu hút NPP tiềm năng
Quán triệt nguyên lý chia sẻ thông tin và phát triển theo cấp số nhân.
Có các chương trình đào tạo người tham gia với nội dung chủ yếu là đào tạo cách bán hàng và cách mở rộng mạng lưới.
Triết lý kinh doanh được cho là mục tiêu tối thượng mà công ty theo đuổi, nhưng đối với công ty nó như một phần cốt yếu của thông điệp marketing.
Không áp dụng các biện pháp quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, không trưng bày sản phẩm ở các cửa hàng bán lẻ, những vai trò này được các NPP đảm nhận.
Cho phép thừa kế, một NPP trong một công ty MLM có thể thừa kế lại toàn bộ sự nghiệp của mình, kể cả cấp bậc và mạng lưới.
Một công ty MLM chân chính luôn có những đặc điểm như sau:
- Cung cấp sản phẩm thiết thực, chất lượng với giá cả phải chăng.
- Tuân thủ pháp luật của quốc gia nơi công ty đăng ký kinh doanh.
- Lợi ích tài chính của công ty và NPP chủ yếu là thành quả của công sức đầu tư xây dựng và cung cấp dịch vụ thực tế.
- Công ty và NPP hoạt động nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm.
2.1.4. Tóm lược lịch sử phát triển của MLM
Cho đến nay ngành kinh doanh theo mạng đã tồn tại 70 năm và lịch sử của nó gắn liền với tên tuổi nhà hóa học Karl Renborg (1887-1973), người Mỹ. Năm 1927 ông từ Trung Quốc về Mỹ nghiên cứu và chế biến các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng, vitamin, các chất vi lượng, đa lượng. Năm 1934, K. Renborg sáng lập công ty Vitamins California. Cuối năm 1939 nhà sáng lập đổi tên công ty thành Nutrilite Products. Những NPP được nhận hoa hồng trên lượng hàng họ bán ra và trên những sản phẩm được bán ra bởi những người do họ trực tiếp tìm ra. Nutrilite Products đã áp dụng mô hình MLM sơ khai.
Năm 1959, hai NPP của K. Renborg là Rich Devos và Jey Van Andel thành lập công ty riêng là American Way Corporation viết tắt là Amway. Hiện nay, Amway đang hoạt động trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam.
Vào những năm 70, MLM chịu sức ép mạnh mẽ từ phía dư luận lẫn chính quyền. Năm 1975 MLM bị quy kết với hình tháp ảo là hình thức kinh doanh bất chính. Ngành MLM bắt đầu cuộc hành trình khẳng định tính đúng đắn của mình để tồn tại mà dẫn đầu là Amway “đứng mũi chịu sào” từ 1975-1979. Cuối năm 1979 Tòa án Thương mại Liên bang Hoa Kì tuyên bố phương thức kinh doanh của Amway không phải là hình tháp ảo. Sau đó không lâu bộ luật đầu tiên về MLM ra đời tại Mỹ công nhận sự tồn tại hợp pháp của mô hình kinh doanh này.
Trong ngành MLM không ai xa lạ với Richard Poe, tác giả quyển “Làn sóng thứ 3”, quyển sách này chia MLM ra các thời kỳ:
Thời kì tiềm ẩn: là giai đoạn 1940-1979, đây là thời kỳ hình thành MLM, đến năm 1979 chỉ có khoảng 30 công ty MLM tại Mỹ.
Thời kỳ bắt đầu: 1979-1990, MLM bùng nổ, mỗi ngày có hàng trăm công ty MLM bố cáo thành lập với đủ loại sản phẩm và sơ đồ kinh doanh.
Thời kỳ đa thị trường hay làn sóng thứ 3: 1990-1999, sự tiến bộ của công nghệ thông tin, truyền thông đã làm cho MLM mang màu sắc mới. Việc quản trị một mạng lưới phân phối khổng lồ trở nên dễ dàng hơn. Máy vi tính, điện thoại, internet…đã giúp các NPP đơn giản hóa công việc của mình và có nhiều hơn thì giờ nhàn rỗi, năng suất tăng lên đáng kể. Làn sóng thứ 3 chứng kiến cảnh các công ty truyền thống lớn như Ford, Colgate, Canon, Coccola và nhiều công ty tên tuổi khác áp dụng MLM đẩy mạnh bán hàng.
Từ năm 2000 trở về sau, ngành công nghiệp MLM bước vào làn sóng thứ 4, MLM phát triển rộng khắp thế giới, hàng chục ngàn công ty MLM đã tồn tại một cách hợp pháp và xây dựng mạng lưới phân phối vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Ngày nay vai trò quan trọng của MLM trong nền kinh tế toàn cầu đã được thừa nhận. Cùng với thương mại điện tử, MLM đang tạo một làn sóng mới trong nền kinh tế hiện nay.
2.1.5. Bản chất của MLM
Từ khi ra đời đến nay MLM nhiều lần va chạm với pháp luật và báo giới. Thực tế đúng như mọi người điều biết nó là một loại hình kinh doanh gây nhiều tranh cãi trong hàng chục năm qua.
MLM không hoạt động theo công thức mà nó là một mô hình kinh doanh được các công ty khác nhau vận hành khác nhau nên nói chung hình thức tồn tại trong nền kinh tế của nó rất phong phú, trong khi những biến tướng của nó hay MLM bất chính phát triển cũng khá nhanh dưới danh nghĩa MLM nên cũng không ngạc nhiên khi MLM và MLM bất chính đôi khi được xem là một. Đây là một lý do chính giải thích nguồn gốc những tranh cãi về bản chất MLM. Những người phản đối MLM tin rằng họ có những bằng chứng không thể chối cãi chứng minh rằng MLM là xấu, gây thiệt hại cho mọi người ngoại trừ những người đứng đầu công ty. Ngược lại, những người bênh vực MLM luôn cố gắng chứng minh MLM không có gì là sai trái và nó là mô hình kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển và mang lại lợi ích cho xã hội.
Đến đây câu hỏi đặt ra là rốt cuộc, MLM tốt hay xấu? Cho dù câu trả lời là nó tốt hay nó xấu vẫn luôn có nhiều ý kiến bác bỏ vì đây đang là tiêu điểm của những vụ tranh cãi không ngừng của những người quan tâm. Thay vào đó chúng ta hãy xem xét những khía cạnh sau thay cho việc lắng nghe một câu trả lời.
- MLM đòi hỏi ở người khao khát thành công tính ham học hỏi và cần cù làm việc, như những ngành kinh doanh khác, những người lười biếng dù có thể đạt được một số thành tựu ban đầu nhưng rồi cũng phải rời khỏi, có thể khác với những ngành kinh doanh khác, công ty không đào thải những ai lười biếng, mà chính sự lười biếng đào thải chủ của chúng.
- Nguyên lý của MLM là đơn giản và dễ thực hiện, nhưng thành đạt trong lĩnh vực này là một bài toán khó. Người bảo trợ có thể hỗ trợ tuyến dưới của mình, nhưng mỗi NPP cần làm lấy mọi việc trên tinh thần trách nhiệm lớn lao với khách hàng.
-Triết lý của MLM là triết lý về một lối sống lành mạnh