Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã khiến tranh chấp thương mại trở thành một hiện tượng khách quan tất yếu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp. Tranh chấp thương mại đã trở thành thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Hiện tượng này tất yếu đòi hỏi những cách thức giải quyết cho phù hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Nước ta đang tiến hành chính sách phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế, tham gia khối mậu dịch tự do AFTA, tổ chức thương mại thế giới WTO, áp dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế. Tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế đang trên tiến trình hội nhấp thương mại quốc tế đang ngày càng diễn ra phổ biến, đa dạng, phong phú. Hiện nay, tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng các phương thực: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, và việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp tùy thuộc vào hiệu quả mà phương thức đó có thể đem lại cho những bên trong cuộc đối với mỗi vụ việc cụ thể. Hiểu biết và nắm cững về mỗi phương thức là cơ hội và chìa khóa đề các doanh nhân tìm ra được con đường giải quyết tranh chấp thích hợp nhất cho mình. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề liên quan tới các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại chưa được quy định đầy đủ và hợp lý trong hệ thống pháp luật nước ta, việc áp dụng các phương thức trong thực tiễn còn nhiều bất cập, vấn đề hoàn thiện các phương thức để phát huy tối đa vai trò của chúng trong nền kinh tế là một nhu cầu bức thiết. Tìm hiểu, phân tích làm rõ nội dung các phương thức giải quyết thương mại, từ đó tìm ra ưu nhược điểm của mỗi phương thức và hướng hoàn thiện là công việc hoàn toàn cần thiết.
15 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3276 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã khiến tranh chấp thương mại trở thành một hiện tượng khách quan tất yếu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp. Tranh chấp thương mại đã trở thành thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Hiện tượng này tất yếu đòi hỏi những cách thức giải quyết cho phù hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Nước ta đang tiến hành chính sách phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế, tham gia khối mậu dịch tự do AFTA, tổ chức thương mại thế giới WTO, áp dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế. Tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế đang trên tiến trình hội nhấp thương mại quốc tế đang ngày càng diễn ra phổ biến, đa dạng, phong phú. Hiện nay, tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng các phương thực: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, và việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp tùy thuộc vào hiệu quả mà phương thức đó có thể đem lại cho những bên trong cuộc đối với mỗi vụ việc cụ thể. Hiểu biết và nắm cững về mỗi phương thức là cơ hội và chìa khóa đề các doanh nhân tìm ra được con đường giải quyết tranh chấp thích hợp nhất cho mình. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề liên quan tới các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại chưa được quy định đầy đủ và hợp lý trong hệ thống pháp luật nước ta, việc áp dụng các phương thức trong thực tiễn còn nhiều bất cập, vấn đề hoàn thiện các phương thức để phát huy tối đa vai trò của chúng trong nền kinh tế là một nhu cầu bức thiết. Tìm hiểu, phân tích làm rõ nội dung các phương thức giải quyết thương mại, từ đó tìm ra ưu nhược điểm của mỗi phương thức và hướng hoàn thiện là công việc hoàn toàn cần thiết.
NỘI DUNG
Khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết:
Định nghĩa tranh chấp thương mại.
Điều 3 LTM 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của các thương nhân được gọi là tranh chấp thương mại. Là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu xuất hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, hiểu một cách khái quát, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa thương mại, tranh chấp thương mại có xu hướng ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loai, phức tạp về nội dung.
Đặc điểm.
Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân. Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty; …
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp.
Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên.
Về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thực : thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
Phương thức thương lượng và hòa giải:
Giới thiệu chung về phương thức lương lượng, hòa giải:
a. Thương lượng:
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, dàn xếp để tháo gỡ những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự giúp hay phán quyết của bên thứ ba.
Thương lượng được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba; quá trình thương lượng không chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc pháp lý; việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp thương mại có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, gián tiếp hoặc kết hợp cả hai. Việc lựa chọn cách thức thương lượng nào phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của các bên.
b. Hòa giải:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Phương thức hòa giải khác thương lượng ở chỗ có sự tham gia của nhân tố trung gian. Người trung gian này không có vai trò quyết định trong việc giải quyết tranh chấp mà chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ cho các bên trong việc tìm ra giải pháp tốt nhất để giải quyết tranh chấp, còn việc giải quyết tranh chấp vẫn là do các bên quyết định. Hòa giải cũng không chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ tục tố tụng pháp lý nào mà do các bên tranh chấp tự quyết định. Kết quả của quá trình hòa giải thành cũng chỉ là sự thỏa thuận của các bên có tranh chấp và việc thực hiện thỏa thuận này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên mà không có bất kỳ một quyết định pháp lý nào.
Cơ sở pháp lý
Điều 327 LTM 2005 quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp : “Thương lượng giữa các bên; hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải…”
Điều 259 Bộ luật hàng hải 2005 quy định : “Các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, thỏa thuận hoặc khởi kiện tại trọng tài hoặc tòa án có thẩm quyền…”
Điều 12 Luật đầu tư 2005 quy đinh : “Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án theo quy định của pháp luật…”
Các Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam – Ấn Độ, Việt Nam – Bungari, Việt Nam – Lào…đều khuyến khích việc sử dụng các phương thức giải quyết ngoài tòa án như là những phương thức giải quyết phù hợp với các bên tranh chấp.
Như vậy, cả pháp luật trong nước lẫn điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết đều đã ghi nhận thương lượng, hòa giải là những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại giữa các bên song còn nhiều nội dung liên quan chưa được quy định cụ thể.
Chủ thể của thương lượng, hòa giải
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng các phương thức thương lượng, hòa giải là các nhà kinh doanh hoặc đại diện ủy quyền, các nhà thương nhân. Các nhà kinh doanh khi tham gia hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, khi có tranh chấp xảy ra, họ là người đầu tiên có trách nhiệm xử lý, giải quyết. Tuy nhiên, khi các tranh chấp thương mại phát sinh không nhất thiết phải do các đại diện có thẩm quyền của các bên đứng ra giải quyết mà có thể có cơ chế ủy quyền.
Các bên tranh chấp cần có các nhà thương lượng để thay mặt, giúp đỡ họ trong quá trình thương lượng, đó là những người đủ các phẩm chất cần thiết để thực hiện nhiệm vụ thương lượng của mình.
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải còn là người trung gian – hòa giải viên. Đó là các cá nhân, pháp nhân được các bên yêu cầu đứng ra làm trung gian hòa giải để giải quyết tranh chấp.
Pháp luật hiện chưa có quy định về phẩm chất, điều kiện cần có của một nhà thương lượng, một hòa giải viên, tuy nhiên nếu họ là luật sư hay hòa giải viên thì phải đáp ứng được điều kiện được quy định trong điều 10 Luật luật sư 2006 và Điều 12 Pháp lệnh trọng tài Thương mại 2003.
Điều kiện của thương lượng, hòa giải:
Các bên đương sự được đảm bào quyền tự định đoạt, có quyền tự thương lượng, hòa giải với nhau mà không bị giới hạn bởi điều luật nào, nếu không thành thì sẽ được giải quyết bằng con đường trọng tài hay tòa án. Điều kiện để thương lượng, hòa giải một tranh chấp thương mại, trước hết phải xem xét thỏa mãn : có tranh chấp thương mại xảy ra, các bên mong muốn loại bỏ mâu thuẫn, khắc phục tổn thất, tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác và các bên đều có tinh thần thiện chí, nhân nhượng, tôn trọng và giữ gìn uy tín cho nhau. Các tranh chấp sử dụng phương thức này thường có giá trị nhỏ, ít phức tạp, chưa trở nên gay gắt, các bên hiểu về nhau, sẵn sàng nhân nhượng và duy trì mối quan hệ lâu dài. Nói vậy không có nghĩa là các tranh chấp phức tạp, giá trị tài sản lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, quốc gia thì không thể thương lượng hòa giài mà vấn đề là các bên phải có thiện chí hợp tác mà mong muốn dùng phương pháp này để giải quyết nhanh chóng các tranh chấp đó.
Phương pháp thương lượng, hòa giải:
Pháp luật không có quy định nào về phương pháp tiến hành thương lượng, hòa giải, nhưng trên thực tế chủ thể có thể tiến hành các phương pháp như:
- Chủ động khai thác yếu tố tâm lý, tình cảm; khéo léo thuyết phục, khuyên nhủ; mềm mỏng, kiên trì, sáng tạo; phân tích rõ lợi hại, cho thấy thiện chí đôi bên…Điều này làm cho các bên ôn hòa, nhường nhịn, thông cảm cho nhau, dễ tìm được tiếng nói chung để giải quyết tranh chấp.
Nhanh chóng đưa ra được nhiều phương án giải quyết để các bên cùng lựa chọn, quyết định; dành cho nhau những khoảng thời gian hợp lý để chọn được phương án tối ưu, biết dung hòa các lợi ích khác biệt, đáp ứng mong muốn của cả đôi bên.
Kết hợp đàm phán trực tiếp với việc đưa ra các tài liệu, dẫn chứng. Điều này thể hiện việc giải quyết tranh chấp linh động, khôn khéo, vừa có lý vừa có tình, tạo ra sự tin tưởng và tính thuyết phục đối với mỗi bên.
Luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên cùng được thể hiện quan điểm, nguyện vọng, ý tưởng của mình để dễ dàng hơn trong việc tìm ra tiếng nói chung và đi đến thống nhất, có như vậy vụ tranh chấp mới được giải quyết nhanh chóng và thỏa đáng.
Nội dung của thương lượng, hòa giải:
Có thể nêu ra một số công việc cần tiến hành như : xác định trách nhiệm cụ thể đối với các bên; xác định những biện pháp chế tài nếu một bên hoặc các bên không thực thi đầy đủ kết quả thương lượng, hòa giải đã thống nhất. Ngoài ra, các bên có thể phải tiến hành nhiều công việc khác tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể. Mọi công việc tiến hành không trái đạo đức xã hội, không gây tổn hại cho bất kỳ ai.
Hiệu lực của thương lượng, hòa giải:
Thương lượng, hòa giải là các phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở tự nguyện của các bên. Biên bản thỏa thuận, hòa giải không phải là một bản án nên việc thực hiện phương án thương lượng, hòa giải mà các bên đã đạt được không mang tính cưỡng chế. Đây là điểm làm hạn chế hiệu lực thi hành các kết quả thu được từ quá trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Về vấn đề này, pháp luật hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ.
Ưu, nhược điểm:
Thương lượng:
Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết này là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng còn bảo vệ uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán, thương lượng dễ hiểu và cảm thông với nhau hơn để có thể thỏa thuận các giải pháp tối ưu theo nguyện vọng mỗi bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng làm được. Bởi vậy, nếu thương lượng thành công không những các bên đã loại bỏ được những bất đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế nhất đinh. Thương lượng thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, thái độ thiện chí, hợp tác của các bên. Khi một hoặc các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực đang tranh chấp, không nhận thức được vị thế của mình, khả năng thắng thua nếu phải theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài phán hoặc không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thường bế tắc.
Hòa giải:
Ưu điểm của phương thức hòa giải là đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả, ít tốn kém. Hòa giải còn có thêm ưu điểm vượt trội do người thứ ba (thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực đang tranh chấp) mang lại. Họ sẽ là người biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp. Trường hợp các bên tranh chấp khả năng nhận thức hạn chế trong lĩnh vực đang tranh chấp thì dùng phương thức hòa giải sẽ có khả năng thành công cao hơn thương lượng. Kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến của người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tuân thủ các cam kết đạt được trong quá trình hòa giải cũng cao hơn.
Hạn chế của hòa giải là dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian mà một bên không trung thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm pashn thì hòa giải cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi. Ngoài ra, chính phải sử dụng đến bên trung gian nên uy tín, bí mật kinh doanh cũng dễ bị ảnh hưởng hơn quá trình thương lượng. Bên cạnh đó, chi phí cho quá trình giải quyết bằng hòa giải cũng tốn kém hơn do phải trả phí cho bên trung gian.
Trọng tài thương mại:
Giới thiệu chung về phương thức trọng tài thương mại:
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Cũng giống như thương lượng và hòa giải, phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sử tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết các bên phải có thoả thuận trọng tài. Sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên. Nhằm khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác, nhà nước đã ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại - Luật Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới, hoàn chỉnh hơn.
Hình thức tồn tại:
Trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức: trọng tài vụ việc (trọng tài ad – hoc) và trọng tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc:
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Bản chất của trọng tài vụ việc thể hiện qua các đặc trưng cơ bản: Một là, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp; Hai là, trọng tài vụ việc không có cơ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không có danh sách trọng tài viên; Ba là, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Ưu thế của trọng tài vụ việc là có thể giải quyết nhanh chóng và ít tốn kém vì nó vẫn chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp; quyển lựa chọn trọng tài viên của các bên không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên như trọng tài quy chế; các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên, khi nếu lựa chọn hình thức trọng tài quy chế, các bên sẽ bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài.
Trọng tài quy chế:
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật trọng tài thương mại và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó. Luật trọng tài thương mại sử dụng thuật ngữ trọng tài quy chế để thay cho khái niệm Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số các đặc trưng cơ bản: là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nươc; có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau; tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ; luật mới cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp, mỗi trung tâm tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng; và hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm.
Các nguyên tắc tố tụng trọng tài:
Một là, nguyên tắc thỏa thuận trọng tài. Điều 3 khoản 2 Luật trọng tài quy định: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Điều 5 khoản 1 luật trọng tài quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.” Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng phương thức trọng tài. Không có thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, và thỏa thuận này có thể được ghi trong hợp đồng hoặc là thỏa thuận riêng, có thể là một phụ lục đính kèm tại thời điểm ký hợp đồng hoặc được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp. Quy định như vậy là thông thoáng, linh hoạt cho các bên khi lựa chọn.
Hai là, nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan. Khoản 2 điều 4 Luật trọng tài thương mại quy định: