Phần I/ Giới thiệu:
Nhắc đến Tây Nguyên người ta sẽ nghĩ đến ngay mảnh đất cao nguyên đầy nắng và gió, những bản làng của người Gia Lai, Ê Đê, những câu truyện sử thi già làng kể mỗi đêm hay chú voi con ở Bản Đôn đã nghe từ ngày còn nhỏ . Đặc biệt nhất phải kể đến đó chính là không gian sôi nổi, vui vẻ với những điệu múa của những cô gái Tây Nguyên, của tiếng nhạc phát ra từ những chiếc cồng, chiếc chiêng làm nên bản sắc văn hóa của cả một dân tộc. Vâng đó chính là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25/11/2005. Sau Nhã nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới.
Điều đó khẳng định Việt Nam là một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa, có nhiều nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Sau đây là những tìm hiểu của nhóm về kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng.
24 trang |
Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 18609 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên
***
Giảng viên: Hồ Thu Hà
***
Danh sách thành viên :
Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hồng Nhung
Nguyễn Thị Vân Anh
Tống Thị Huyền
Nguyễn Thu Hiền
Trần Minh Nguyệt
Giang Anh Minh
Vũ Thị Thu Huyền
Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh
Cao Thị Hoài Thu
Nguyễn Thị Thủy
Nguyễn Văn Hưng
Lương Thái Bình
Phạm Thùy Dung
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT
HỌ VÀ TÊN
CÔNG VIỆC
ĐÁNH GIÁ
GHI CHÚ
1
Vũ Thị Thu Huyền
Tìm hiểu không gian tồn tại và lịch sử hình thành của CCTN
4/5*
Nộp đúng hạn
2
Tống Thị Huyền
Tìm hiểu về cấu tạo của không gian văn hóa CCTN
4/5*
Nộp đúng hạn
3
Lê Văn Hưng
Lương Thái Bình
Tìm hiểu về quan niệm về cồng chiêng của người Tây Nguyên
Hưng: 2/5*
Bình:0/5*
Hưng nộp muộn, thiếu ảnh
4
Trần Minh Nguyệt
Tìm hiểu về đặc trưng người diễn xướng.
4/5*
Nộp đúng hạn
5
Phạm Thùy Dung
Tìm hiểu về đặc trưng về cách thức diễn xướng
3/5*
Nộp muộn, thiếu ảnh
6
Nguyễn Thị Thủy
Tìm hiểu về biên chế và cơ cấu dàn nhạc.
3/5*
Thiếu ảnh
7
Lang Thị Thư
Đặng Thị Thùy Linh
Tìm hiểu về hệ bài bản
Thư:4/5*
Linh:4/5*
Nộp đúng hạn
8
Cao Thị Hoài Thu
Tìm hiểu về thực trạng và tiềm năng
3/5*
Nộp muộn, thiếu ảnh
9
Nguyễn Thu Hiền
Nguyễn Thị Vân Anh
Làm powerpoint
Hiền:5/5*
V.Anh:5/5*
Tích cực
10
Giang Anh Minh
Thuyết trình
5/5*
Tích cực
11
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Phân chia công việc, tổng hợp tài liệu, chỉnh sửa và hoàn thiện word, thuyết trình, đánh giá.
5/5*
Nhóm trưởng
Cấu tạo bài:
I/ Giới thiệu.
II/ Những vấn đề chung.
Không gian tồn tại.
Lịch sử và nguồn gốc hình thành.
Cấu tạo.
Quan niệm về cồng chiêng của người Tây Nguyên.
III/ Đặc trưng cơ bản của cồng chiêng Tây Nguyên.
Đặc trưng về người diễn xướng.
Đặc trưng về cách thức diễn xướng.
Đặc trưng về biên chế và cơ cấu dàn nhạc.
Hệ bài bản.
IV/ Tiềm năng phát triển và những giải phát để gìn giữ và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Thực trạng
Tiềm năng phát triển
Các giải pháp
***
Phần I/ Giới thiệu:
Nhắc đến Tây Nguyên người ta sẽ nghĩ đến ngay mảnh đất cao nguyên đầy nắng và gió, những bản làng của người Gia Lai, Ê Đê, những câu truyện sử thi già làng kể mỗi đêm hay chú voi con ở Bản Đôn đã nghe từ ngày còn nhỏ. Đặc biệt nhất phải kể đến đó chính là không gian sôi nổi, vui vẻ với những điệu múa của những cô gái Tây Nguyên, của tiếng nhạc phát ra từ những chiếc cồng, chiếc chiêng làm nên bản sắc văn hóa của cả một dân tộc. Vâng đó chính là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25/11/2005. Sau Nhã nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới.
Điều đó khẳng định Việt Nam là một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa, có nhiều nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Sau đây là những tìm hiểu của nhóm về kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng.
***
Phần II/ Những vấn đề chung.
Không gian tồn tại:
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam, các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn – Tây Nguyên như : Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản nhạc của dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới, mừng nhà mới và cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, nó là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Trải qua bao năm tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên.
Lịch sử và nguồn gốc hình thành.
Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa Đông Sơn_truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn đá. Bởi trước khi có văn hóa đồ đồng tức thời kì đồ đá, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá, , hay chiêng tre, Rồi theo tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người tìm ra đồng, tạo nên thời đại hoàng kim đồ đồng. Trong thời kì hoàng kim của đồ đồng, các vật dụng bằng đồng lần lượt được ra đời, trong số đó, chiêng đồng được coi là đỉnh cao với kĩ thuật chế tác tinh xảo.
Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng,.. Nó là biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... Với âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu, hay trong một buổi nghe khan thì đều phải có tiếng cồng, tiếng chiêng dài hơn đời người. Tiếng cồng, tiếng chiêng nối liền và kết dính những thế hệ lại với nhau.
Có một câu chuyện truyền miệng như sau :
Người Xêđăng kể rằng: Thuở xa xưa có lần voi dữ tràn về phá rẫy, phá buôn. Con trai Xêđăng mang theo lao, tên lá cùng hợp sức tiêu diệt thú dữ, đánh nhau suốt mấy ngày đêm, sức tàn lực kiệt mà thú dữ càng hung tợn. Họ chỉ còn biết chắp tay cầu Yàng. Bỗng họ thấy đùn lên một ụ đất, đào xuống thấy một vật bằng đồng tròn như ông mặt trời to bốn người ôm mới xuể.
Gõ vào vật ấy phát ra tiếng trầm vang động núi rừng khiến đàn thú dữ ngơ ngác. Rồi các ụ đất liên tiếp mọc lên, mang theo các vật bằng đồng hình dáng tương tự nhưng nhỏ dần, âm càng cao. Khi đã có trong tay hơn 10 chiếc Chiêng, đồng thanh gõ lên thì tiếng trầm như thác đổ, tiếng cao như thác reo khiến voi dữ phải chạy vào rừng sâu
Cấu tạo của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, nó là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, nó diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng-chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...).
Với người Tây Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong đời sống xã hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là "tiếng nói" của con người và của thần linh theo quan niệm "vạn vật hữu linh".
Hiện tại, ở các vùng có Cồng Chiêng trên Tây Nguyên, Lễ Hội Cồng Chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm dành cho du lịch rất thịnh hành.
Lễ Hội Cồng Chiêng là một lễ hội được tổ chức hàng năm theo hình thức luân phiên tại các tỉnh có văn hoá Cồng Chiêng trong đó Đắk Lắk là một điểm quan trọng và hay được chọn nhất do vị trí trung tâm văn hoá, chính trị, xã hội của khu vực Tây Nguyên nơi có nhiều Cồng Chiêng nhất ở Việt Nam.
Và ở mỗi một dân tộc khác nhau lại có những quy định khác nhau về cách tổ chức và người chơi cồng chiêng. Điều này liên quan đến phong tục tập quán và tín ngưỡng của từng dân tộc, những kiêng kị trong sử dụng cồng chiêng cũng khác biệt ở mỗi dân tộc.
Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng thì không có núm. Nhạc cụ này có nhiều kích cỡ, đường kính dao động từ 20cm đến 60cm, loại cực đại lên tới 90cm hoặc đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ bao gồm từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc.
Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng. Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thang âm của riêng mình. Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Chính vì vậy trên thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý giải là tại vì sao mà âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu đến như vậy.
Đặc điểm nổi bật nhất của cồng chiêng Tây Nguyên đó là trong cấu tạo. Cấu tạo của cồng chiêng Tây Nguyên không tách ra đơn lẻ mà thành dàn và dàn cồng chiêng được diễn tấu bởi một tập thể người_mang tính cộng đồng dân tộc sâu sắc. Nghĩa là ở đây mỗi nhạc công chỉ chơi một chiếc cồng hoặc một chiếc chiêng, tức là mỗi người chỉ đảm nhiệm một nốt nhạc trong một bản nhạc. Bởi vậy, khi hoà tấu cồng chiêng, các thành viên phải diễn tấu, kết hợp với nhau theo từng đơn vị tiết tấu nhất định để tạo nên bài bản. Đó là một kỹ thuật không dễ thực hiện, đòi hỏi nhạc công phải có một bản lĩnh tiết tấu vững vàng. Trong bài bản cồng chiêng, chúng ta thấy có tầng giai điệu trên, tầng giai điệu dưới, có phần hòa âm, có phần bè trầm đan xen hòa quyện; bởi vậy mỗi thành viên khi diễn tấu phải kết hợp với nhau theo một quy luật nào đó để cấu thành nên những bài cồng chiêng khác nhau v.v Trên một nền kinh tế nương rẫy còn nhiều khó khăn đói nghèo, việc đồng bào Tây Nguyên sở hữu một nền nghệ thuật như vậy quả là điều thật kỳ vĩ. Với đồng bào Tây Nguyên, kỹ thuật tiết tấu dường như là bản năng của họ. Ở đây, do mỗi người chơi một chiếc cồng, chiêng tức là mỗi người chơi một nốt nhạc nên chúng ta có cảm giác dàn cồng chiêng trải dài trong không gian. Nó giống như một cây đàn khổng lồ mà mỗi người chỉ chơi 1 phím đàn thôi. Bởi vậy, nếu người nghe đứng giữa dàn cồng chiêng, tức “chiếc đàn khổng lồ” này thì họ sẽ cảm thấy giai điệu bài bản chạy qua, chạy lại, đi vòng quanh.
Ví dụ: nếu họ đứng ở khúc giữa thì sẽ nghe giai điệu bản nhạc diễn ra ở một vài cái chiêng ở trước mặt thôi còn ở phía xa hơn về bên tay phải hoặc tay trái sẽ khó nghe thấy toàn bộ sự hiển thị giai điệu cân bằng. Khi hoà tấu, âm thanh của dàn cồng chiêng chuyển động, chúng ta sẽ cảm thấy bản nhạc thực sự chuyển động trong không gian và đấy chính là hiệu ứng của âm thanh vòm (surround sound) rất là thú vị.
Qua những điều nói ở trên, có thể khẳng định rằng “cồng chiêng Tây Nguyên” là một nền nghệ thuật đồ sộ, vĩ đại. Vĩ đại ở chỗ người Tây Nguyên không sản xuất ra cồng chiêng mà thu mua, gom lại của các tộc người khác sống quanh mình. Họ mua lại của người Kinh, người Lào, người Khơ me, hay mua từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó tập hợp lại thành bộ, căn chỉnh và xếp theo hàng âm sao cho phù hợp với thẩm mỹ của dân tộc họ. Rồi từ đó dần dần hình thành nên một nền nghệ thuật cồng chiêng đồ sộ như ngày nay.
Một số loại chiêng:
- Chiêng Lào: đã được đưa từ Lào sang, có người còn cho rằng chiêng Lào thực ra đã được đúc từ Myanma, qua con đường trao đổi, buôn bán đã đến Tây Nguyên. Đây là loại chiêng rất quý được đúc bằng đồng có pha bạc, tiếng kêu to và vang xa.
- Chiêng Gioăn: do người Kinh đúc. Đây cũng là vấn đề còn được bàn luận khá sôi nổi. Tại sao người Kinh đúc chiêng mà lại không sử dụng? Có lẽ thuở bấy giờ người Kinh đã tìm thấy một thị trường lớn tiêu thụ cồng chiêng rồi sản xuất và đưa lên Tây Nguyên trao đổi, luôn bán.
- Chiêng Kur: được đưa từ Campuchia sang.
Quan niệm của người Tây Nguyên về cồng chiêng.
Trong xã hội cổ truyền, con người có ít nhất là ba mối quan hệ: đó là quan hệ với thiên nhiên-thông quá trình canh tác cây trồng, quan hệ với xã hội-thông qua các tập tục tín ngưỡng, quan hệ với dòng đời-mỗi con người thành viên. Để hiện thực hóa các mối quan hệ đó, con người tổ chức các nghi lễ, các hoạt động văn hóa trong cộng đồng. Đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, trong toàn bộ các nghi lễ đó cồng chiêng là một thành tố không thể thiếu. Tiếng chiêng tiếng cồng được coi là một biểu hiện vô hình của đời sống cộng đồng. Và trên hết, cồng chiêng được tín hiệu nối kết mọi người trong một đơn vị lại với nhau. Chỉ cần nghe tiếng chiêng, những người trong buôn, trong vùng sẽ hiểu ngay ở phía đó đang xảy ra chuyện gì, âm điệu và bài chiêng sẽ báo hiệu cho đó là chuyện lành hay diềm dữ.
Chính vì cồng chiêng có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng như vậy, người Tây Nguyên có những quan niệm về cồng chiêng như sau:
• Do tín ngưỡng vạn vật hữu linh, Các tộc người tây nguyên quan niệm cồng chiêng là “vật thiêng”, nơi trú ngụ của các vị thần linh, đằng sau mỗi chiếc cồng, mỗi chiếc chiêng là 1 vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Tuy nhiên, ngay từ đầu thì những bộ cồng chiêng mới chưa có được khả năng thần bí ấy. Sau khi mua chiêng về, tiếp ngay sau công đoạn thẩm âm cho chiêng là đến nghi lễ đón hồn chiêng. Người ta làm lễ hiến sinh và mời thần linh về giúp đỡ, bằng phép thuật, thần linh làm cho cồng chiêng có sức mạnh hơn, đủ khả năng thông linh với các tầng miền thế giới trong vũ trụ. Đối với các tộc người Tây Nguyên, lễ hiến sinh càng lớn cồng chiêng càng có sức mạnh và linh thiêng.
Với quan niệm này cồng chiêng được sử dụng để thờ cúng.
• Bên cạnh quan niệm bên trên, người Tây Nguyên còn coi cồng chiêng là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng có giá trị bằng hai con voi hoặc hai mươi con trâu.
Với quan niệm này cồng chiêng được sử dụng làm vật trang trí.
• Cùng với quan niệm coi cồng chiêng là vật thiêng để thờ cúng, hay là vật quý giá để trang trí và thể hiện đẳng cấp xã hội. Người Tây Nguyên còn coi cồng chiêng như là công cụ để giải trí. Đôi khi nó còn được dùng để đánh, để múa ,để hát, để vui chơi giải trí trong những lễ hội. Trong mỗi lễ hội tiếng cồng chiêng là phương tiện kết nối thiêng liêng nhất và hiệu quả nhất giữa con người với con người và giữa dân tộc này với dân tộc khác. Con người dường như tìm thấy một sự giao hòa thực sự với nhau và với mẹ thiên nhiên vĩ đại khi họ cùng hòa chung trong những âm thanh sống động của cồng chiêng, nó đem đến niềm vui cho tất cả mọi người trong nghi lễ đâm trâu, lễ lập làng, lễ mừng nhà rông mới. Cứ như vậy chiêng mải miết theo thời gian, đi hết vòng tròn này đến vòng tròn khác. Mỗi thời khắc đi qua, chiêng mang đến cho mọi người biết bao điều như niềm vui có nơi ở mới, thành viên mới, lời cảm thông chia sẻ lỗi buồn và biết bao điều hy vọng.
Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
***
Phần III/ Đặc trưng cơ bản của cồng chiêng Tây Nguyên.
Đặc trưng về người diễn xướng.
Ở mỗi một dân tộc khác nhau lại có những quy định khác nhau về việc lựa chọn người chơi cồng chiêng. Điều này liên quan đến phong tục tập quán và tín ngưỡng của từng dân tộc, những kiêng kị trong sử dụng cồng chiêng cũng khác biệt ở mỗi dân tộc.
Ở phần lớn các tộc người, cồng chiêng là nhạc cụ dành riêng cho nam giới. Đó là trường hợp của các tộc người như Gia Rai, Ê Đê Kpah, Ba Na, Xơ Đăng, Brâu, Cơ Ho... Nhưng song song với những dân tộc đó, có những tộc người cồng chiêng được cho phép cả nam lẫn nữ đều có thể sử dụng, ví dụ như : Mạ, M’Nông. Nhưng riêng một số ít tộc người như Ê Đê Bih thì chỉ có nữ giới mới được chơi cồng chiêng.
Văn hóa và âm nhạc công chiêng Tây Nguyên tồn tại dưới hình thức văn hóa và âm nhạc dân gian. Nó là sự sở hữu của cộng đồng và có năng lực xác định chuẩn văn hóa cho thành viên cộng đồng. Chẳng hạn như: ở những tộc người, cồng chiêng dành riêng cho nam giới thì tất cả nam giới trong tộc người đó phải biết đánh chiêng; ngược lại ở những tộc người cồng chiêng dành riêng cho nữ giới thì mọi cô gái của tộc người đó phải thực hiện nhiệm vụ này.
Trang phục của nghệ nhân trình diễn cồng chiêng và những người nhảy múa bao giờ cũng là bộ sắc phục đẹp nhất và được dành riêng cho những khi tiến hành lễ hội mà thường ngày ít khi mặc và bắt gặp.
Ví dụ như bộ sắc phục của nam và nữ Ba Na:
Với nam giới: các chàng trai mặc áo ló (một kiểu áo chui đầu, không tay, có trang trí những đường viền đỏ xung quanh cổ, vai, gấu áo), mang khố hoa có trang trí nhiều họa tiết ở hai đầu và những hạt cườm trắng cầu kỳ. Nam giới cũng thường chú ý làm cho tóc của mình trở nên hấp dẫn bằng cách sử dụng những dây buộc tóc được làm từ những sợi mây nhỏ tết lại theo các hình quả trám, cộng thêm những lông chim trĩ hoặc là lông đuôi gà rừng đực cắm ở phía sau gáy. Bộ sắc phục này còn được trang hoàng thêm bởi những vòng đồng, bạc ở những thắt lưng, những vòng cườm quanh cổ và những vòng đồng ở cổ tay, cũng có trường hợp người ta còn buộc thêm những quả chuông đồng nhỏ ở quanh cổ chân, khiến cho những bước di chuyển của những nghệ nhân dẫn theo những tiếng va chạm của chuông đồng.
Với nữ giới: Trang phục của họ cầu kì hơn, các cô gái mặc một cái áo dài tay bó sát thân hình có trang trí nhiều họa tiết ở vùng xung quanh ngực, gấu áo, cổ tay và hai bên vai. Chiếc áo này có thể mặc bằng hai cách: áo luồn tay và áo không luồn tay, đối với áo không luồn tay thì phải có một chi tiết động là hai cánh tay thả lỏng ở bên ngoài, chỉ đính vào thân áo ở cầu vai. Phụ nữ đương nhiên có chiếc váy truyền thống trang trí rất nhiều hoa văn ở mông và những đường viền chạy quanh thân người. Chiếc váy này không được may thành hình ống tròn mà chỉ là một tấm vải được dệt sẵn và khép lại ở phía trước. Mỗi khi thực hiện bước múa, các cô gái cao nguyên xinh đẹp lại khéo léo để lộ ra một phần cặp chân của họ. Phụ nữ Ba Na cũng thích làm đẹp hơn bằng cách đeo nhiều vòng đồng, bạc ở vùng quanh eo, cổ tay và trên cổ. Những chiếc vòng này chỉ mang tính chất trang trí vì hầu hết những chiếc vòng này đều rộng hơn so với eo của những cô gái và họ thường cố tình để nó trễ sang một bên hông. Cách đây nhiều năm về trước, còn bắt gặp trong trang phục của người phụ nữ Ba Na những chùm chuông đồng nhỏ đính ở eo hoặc quanh cổ chân.
Trang phục lễ hội tạo cho những người dân cao nguyên vẻ đẹp khác thường và đó là dấu hiệu bản sắc để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác trong cùng một vùng sinh sống.
Bên cạnh trang phục, người diễn xướng cần có những kỹ thuật nhất định và có sự cảm âm tốt, kết hợp với mọi người trong dàn nhạc.
Đặc trưng về cách thức diễn xướng.
Cồng chiêng Tây Nguyên được bảo lưu dưới hình thức diễn xướng tập thể – cộng đồng:
Mỗi nghệ nhân chơi một nốt (một chiêng) và một mô hình tiết tấu, kết hợp thành bè, thành giai điệu. Khi hợp tấu thì các nghệ nhân lắng nghe nhau tức là phải có tâm linh cộng đồng. Ứng vào trong quá trình diễn xướng, người đánh cồng chiêng luôn luôn di động còn động tác thì rất đa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng.
Trong dàn cồng chiêng, vị trí của mỗi cá nhân cũng hết sức đặc biệt: đối tượng quan trọng nhất bao giờ cũng ở giữa, dàn cồng đi vòng quanh đối tượng từ phải sang trái, ngược chiều kim đồng hồ, với ý nghĩa ngược thời gian trở về dĩ vãng, từ bên ngoài vào trong tim
Về cách kích âm thì có 2 phương pháp kích âm cơ bản là chi dùi gõ (dành cho cả cồng lẫn chiêng) và chi đấm (chỉ dành cho chiêng). Theo thống kê, các dàn chiêng tộc người Mạ, M’nông, dàn chiêng đôi của người Chu Ru và Cơ Ho thuộc chi đấm. Còn tất cả các dàn chiêng khác đều thuộc chi dùi gõ.
Tùy từng nơi, trong lúc diễn tấu, người ta thường sử dụng bàn tay đỡ vào mặt hay thành cồng chiêng để bịt hay mở tiếng nhằm tạo hiệu quả âm ngân vang hay âm ngắt. Tay còn lại kích âm theo cách đấm hoặc gõ dùi. Điểm kích âm của cồng bao giờ cũng là núm lồi. Còn điểm kích