Đề tài Khủng hoảng nợ dưới chuẩn, bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng cho hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam

Tín dụng xuất phát từgốc từLatinh: Gredittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữViệt Nam là sựvay mượn. Trong thực tếtín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ởbất cứdạng nào tín dụng cũng thểhiện 2 mặt cơbản: - Người sởhữu một sốtiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sửdụng trong một thời gian nhất định. - Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sửdụng hoàn lại cho người sởhữu 1 giá trịlớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữkinh tếlà lãi suất. Tín dụng thứcấp còn gọi là cho vay dưới chuẩn, là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vịthếxã hội thấp hoặc có lịch sửthanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khảnăng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉdành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợdưới chuẩn có mức độrủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn và còn bằng tài sản thếchấp.

pdf40 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5159 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng nợ dưới chuẩn, bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng cho hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 1          TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHÒNG SAU ĐẠI HỌC HH II ĐỀ TÀI MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ KHỦNG HOẢNG NỢ DƯỚI CHUẨN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ KHỦNG HOẢNG CHO HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM Khóa : K21 Lớp : Ngày 3 Nhóm : 5 GVHD : TS. Diệp Gia Luật THÀNH VIÊN NHÓM 1. Nguyễn Thanh Quế Anh 7. Nguyễn Văn Phúc 2. Trần Đức Dương 8. Nguyễn Thị Thảo 3. Lê Thanh Điệp 9. Đỗ Minh Tuấn 4. Nguyễn Thị Hà 10. Phạm Vũ Tuấn 5. Trần Minh Hậu 11. Phạm Thị Vân ( nhóm trưởng ) 6. Phạm Thị Hoà 12. Trần Thị Thanh Vân GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 2  MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………..3 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG ...................................................................... 4 1.1 Các khái niệm & đặc điểm cảu tín dụng thứ cấp ....................................... 4 1.1.1 Khái niệm ................................................................................................ 4 1.1.2 Các đặc điểm của tín dụng thứ cấp ........................................................ 4 1.2 Nguyên nhân khủng hoảng tín dụng thứ cấp .............................................. 5 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNGTHỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG THỨ CẤP ..................................................................................................................... 11 2.1 Thực trạng khủng hoảngthị trường tín dụng thứ cấp tại Mỹ ................ 12 2.2 Thực trạng khủng hoảngthị trường tín dụng thứ cấp tại các nước khác, đặc biệt là khu vực châu Âu ............................................................................................ 16 2.3 Tác động của khủng hoảng ......................................................................... 17 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Ở VIỆT NAM 26 3.1 Ảnh hưởng khủng hoảng nợ của Mỹ đến Việt Nam ................................ 26 3.2 Bài học rút ra từ khủng hoảng vay dưới chuẩn Mỹ ................................. 31 3.3 Kiến nghị cho Việt Nam .............................................................................. 35 3.3.1 Nguy cơ xảy ra khủng hoảng ở Việt Nam ............................................ 35 3.3.2 Một số kiến nghị ................................................................................... 38 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 39 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..40 GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 3  LỜI MỞ ĐẦU Hầu như không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào, khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ đã bất ngờ nổ ra vào giữa năm 2007. Cuộc khủng hoảng này có tác động mạnh đến cả hệ thống tài chính lẫn nền kinh tế thực. Các cơ quan điều tiết tài chính của Mỹ, từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ủy ban Chứng khoán (SEC) cho tới Bộ Tài chính đều đã phải vào cuộc nhằm giải quyết khủng hoảng. Nguồn gốc ban đầu của cuộc khủng hoảng tồi tệ này là sự chứng khoán hoá các khoản cho vay mua nhà không đủ tiêu chuẩn. Thứ nhất, cơ chế cho vay đã bị đơn giản hoá, dựa hoàn toàn vào những đánh giá của các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm, dẫn đến nhiều khoản vay không đủ chuẩn. Thứ hai, cơ chế chứng khoán hoá đã đánh đồng các khoản vay đủ chuẩn và không đủ chuẩn, gây ra cả bong bóng nhà đất lẫn chứng khoán. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 4  CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Các khái niệm và đặc điểm của tín dụng thứ cấp 1.1.1. Khái niệm Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latinh: Gredittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào tín dụng cũng thể hiện 2 mặt cơ bản: - Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. - Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu 1 giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất. Tín dụng thứ cấp còn gọi là cho vay dưới chuẩn, là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn và còn bằng tài sản thế chấp. 1.1.2. Các đặc điểm của tín dụng thứ cấp ™ Độ rủi ro cao Tài sản thế chấp là tài sản hình thành từ nguồn tín dụng. Tài sản thế chấp cho các khoản vay này thường chính là các bất động sản mà người vay vốn mua. Hạn mức cho vay cao. Thời hạn cho vay dài. Các khoản vay thế chấp này thường được kéo dài thời gian trả nợ của người đi vay. Lãi suất cao. Khả năng chi trả và điểm tín dụng của người đi vay không được xét theo quy định. Do vậy, khi thị trường suy thoái, những người đi vay dạng này không có điều kiện trả nợ. ™ Quá trình phân bổ rủi ro rộng GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 5  Hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn có quá trình lan truyền, phân bổ rủi ro rộng do sau khi cho vay, ngân hàng chuyển nhượng khoản vay cho công ty cho vay thế chấp. Sau đó, các công ty này thực hiện phát hành “trái phiếu tái thế chấp” chuyển nhượng rộng rãi trên thị trường chứng khoán. Dưới hình thức này, người cho vay thực (người nắm giữ “trái phiếu tái thế chấp”) và người đi vay không biết nhau. Mức độ lan tỏa rủi ro rộng là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh kéo theo quá nhiều các thành phần đầu tư trong nước cũng như nước ngoài vào cuộc chơi. ™ Tính thanh khoản cao Do những khoản vay đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông dụng có thể chuyển nhượng, mua bán dễ dàng và rộng rãi trên thị trường chứng khoán nên tín dụng có tính thanh khoản cao. 1.2. Nguyên nhân khủng hoảng tín dụng thứ cấp ™ Chính sách tiền tệ mở rộng của FED trong giai đoạn 2001-2004 Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt giảm lãi suất. Chính sách tiền tệ mở rộng đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế. Đến giữa năm 2002, nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhưng mối lo ngại về việc suy thoái có thể quay trở lại đã khiến Chủ tịch FED, Alan Greenspan, và đồng nghiệp quyết định giữ nguyên lãi suất chỉ đạo ở mức 1% trong suốt 2 năm 2003 và 2004. Căn cứ vào “tín hiệu” của ngân hàng trung ương, lãi suất trên hầu khắp các thị trường tài chính đều đã giảm mạnh. Đặc biệt, lãi suất đối với khoản vay cố định 30 năm chỉ ở mức 4% đến 5%, thấp nhất trong vòng 40 năm qua. Tháng 9.2001, FED cũng đã bơm một số tiền lên tới 38,25 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng Mỹ để duy trì sự lưu thông tiền tệ thông suốt và tuyên bố sẵn sàng bơm thêm tiền nếu cần thiết. Bên cạnh đó khối lượng tín dụng còn được thúc đẩy bởi dòng vốn nước ngoài chảy vào ổn định. Như vậy với việc hạ lãi suất, bơm tiền vào nền kinh tế làm cho lượng cung tiền tăng mạnh nhưng FED không hề thực hiện bất kỳ một biện pháp nào để “trung hòa hóa” tác động của dòng vốn vào đối với cung tiền vì họ tin rằng nền kinh tế vẫn đang trong GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 6  quá trình phục hồi. Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vào cuối năm 2002 làm cho thu nhập cá nhân và lợi nhuận của công ty đều tăng lên đáng kể. Biểu 1: Diến biến thay đổi lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh) Nguồn cung tiền tệ dồi dào dẫn đến việc bất cân đối về cung cầu tiền tệ và cho vay dưới chuẩn là giải pháp để giải quyết bài toán về thừa vốn để tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá đã dãn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng. Những người dân có thu nhập thấp và mức tín dụng dưới chuẩn được vay tiền để đầu tư vào thị trường bất động sản với hi vọng được giàu lên nhanh chóng mà không nhận thức được rủi ro khi nhu cầu nhà đất chỉ là bong bóng cho đến khi rủi ro trở thành khủng hoảng. ™ Giá nhà tăng liên tục Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Cuối năm 2002, hoạt động của thị trường nhà ở diễn ra sôi động nhờ thu nhập cá nhân tăng, lãi suất cho vay thế chấp thấp và các GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 7  khoản tín dụng dồi dào. Điều này đã khiến cho tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều muốn tranh thủ kiếm lời. Bong bóng bất động sản hình thành từ 3 nguyên nhân: - Cục dự trử liên bang Mỹ nới lỏng chình sách tiền tệ. Nguồn vốn dồi dào từ thị trường tại chính trong và ngoài nước.Cung tiền tăng, lãi xuất giảm đồng thời thực hiện giải pháp cho vay dưới chuẩn để giải quyết bài toán thừa vốn và tối đa hóa lợi nhuận. Tạo điều kiện cho người dân đi vay vốn mua bất động sản với hi vọng giàu lên nhanh chóng khi bất động sản tăng giá. - Công ty tài chính thực hiện chứng khoán hóa các khoản cho vay của ngân hàn thương mại. Việc này diễn ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ vì việc mua bán bảo hiểm diễn ra là vô cùng phức tạp. - Việc thực hiện chứng khoán hóa lan rộng ra ngoài phạm vi của ngân hàn thương mại mà tới các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Nguồn vốn trở nên rất dồi dào. Với những lý do trên thị trường bất động sản trở nên nhộn nhịp. Những người có thunhập thấp và diểm tín dụng dưới chuẩn vẫn có cơ hội vay tiền mua nhà với mức lãi xuất cao hơn bình thường và dưới hình thức lãi xuất điều chỉnh. Giá bất động sản tăng liên tục, với con mắt lạc quan các nhà đầu tư vẫn nhìn thấy ánh sáng và cơ hội ở thị trường bất động sản và các nhà đầu tư vân tiếp tục có nhu cầu mua MBS. Một phần, nhà đầu tư được trấn an bằng các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và nhà đầu tư khác Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS (credit default swap) ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình. Nhu cầu mua nhà tăng cao, kéo theo giá bất động sản tăng liên tục, bình quan tăng 54% trong vòng 4 năm. Dẫn đến việc đầu cơ và ỷ lại giá nhà sẽ tiếp tục tăng lên. Người mua tiếp tục mua nhà với giá cao hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó. Một bong bóng đã được hình thành trong thị trường bất động sản. Người dân đổ xô đi mua nhà nhằm kiếm lời bởi họ tin rằng giá nhà sẽ tăng cao hơn. Nhiều nhà đầu cơ đã thu lợi lớn chỉ đơn giản bằng cách mua nhà và bán lại, thậm chí GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 8  ngay cả khi những ngôi nhà đó chưa được xây xong và đưa vào sử dụng. Các nhà môi giới cho vay thế chấp nôn nóng đẩy nhanh và kết thúc các giao dịch nhằm thu về các khoản phí và chuyển sang các giao dịch kế tiếp. Về sau, người ta mới nhận ra rằng nhiều người mua nhà thế chấp đủ tiêu chuẩn lại bị hướng vào nhóm đối tượng vay nợ dưới chuẩn bởi vì những người bán trung gian được hưởng phí cao hơn từ loại này. Những người cho vay cảm thấy an toàn vì rủi ro vỡ nợ đang giảm theo thời gian do giá nhà vẫn tiếp tục tăng. Giá trị tài sản của những người sở hữu nhà cũng tăng theo tương ứng. Biểu 2: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kì “ bong bóng” thị trường nhà ở Hầu hết các khoản vay dưới chuẩn đều theo hình thức vay thế chấp với lãi suất linh hoạt (ARM: adjustable-rate mortgage). Theo truyền thống, người mua thường muốn vay tiền mua nhà với lãi suất cố định hơn là lãi suất linh hoạt. Theo đó, họ sẽ phải thanh toán hàng tháng tiền lãi với lãi suất cố định trong suốt 30 năm (lãi suất 4-5%). Tuy nhiên, lãi suất ARM lại rất thấp (1%/năm) với thời hạn từ 3 đến 5 năm. Chính vì vậy, nó đã thu GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 9  hút được những người mua có thu nhập thấp. Tuy nhiên, các khoản tiền lãi phải trả hàng tháng đã tăng dần theo thời gian do lãi suất cho vay được điều chỉnh lên những mức cao hơn. ™ Cơ chế giám sát, cơ chế quản trị rủi ro việc cho vay dưới chuẩn lỏng lẻo Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay. Tùy theo mức độ, khoản nợ cho người có điểm tín nhiệm dưới chuẩn vay có đặc điểm lãi suất cao, chiết khấu sâu, tỷ lệ nợ vay tối đa trên tài sản thế chấp thấp so với khoản nợ chuẩn. Mức độ rủi ro của việc cho vay dưới chuẩn thật sự cao khi rủi ro về đạo đức xảy ra. Khi các tổ chức cho vay liều lĩnh, rót tiền vào khách hàng không thu nhập, không việc làm, không tài sản. Khi thi trường tài chính nhộn nhịp, việc chứng khoán hóa đã làm cho nguồn vốn tăng lên dồi dào, các ngân hàng và tổ chức tài chính cố gắng tìm khách hàng cho vay để thu được lợi nhuận. Tiêu chuẩn cho vay giảm dần đến không có tiêu chuẩn, Các nhà môi giới khi dàn xếp các khoản vay rủi ro này cũng yêu cầu khoản phí cao. Như vậy, hoạt động của toàn hệ thống được thúc đẩy bởi khối lượng tín dụng cao, tiêu chuẩn tín dụng thấp, lãi suất và phí cao. Hầu hết những người cho vay không nhận ra cái bẫy họ đang bước vào. Đồng thời, nhiều người đi vay đã lợi dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để đầu cơ. Họ không mua nhà để ở mà chỉ để giữ một thời gian rồi bán lại cho người khác nhằm kiếm lời. ™ Việc áp dụng công cụ chứng khoán hóa không hợp lý Chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 10  Sơ đồ 1: Nghiệp vụ Chứng khoán hóa Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.Cái gọi là đòn bẩy tài chính được tận dụng khi chứng khoán mua vào được sử dụng làm vật thế chấp để vay mua chứng khoán khác, cứ thế một đồng đô la tài sản thật sẽ được biến hóa thành hàng trăm đồng đô la tài sản ảo chỉ hiện diện trên sổ sách Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Khi quả bong bóng bất động sản nổ, người dân không còn khả năng trả tiền vay hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói chứng khoán trả góp bị mất giá vì không nhà đầu tư nào muốn mua nữa ™ Lòng tham của thị trường ( Gồm tâm lý bầy đàn & sự lạc quan quá mức) Lãi xuất cao cộng với lòng tham của các ngân hàng và công ty tài chính đã dẫn đến việc cho vay với tiêu chuẩn người đi vay rất thấp thậm chí bằng không. Lòng tham đã che mờ cái rủi ro hiện hữu trước mặt của các ngân hàng và tổ chức tài chính. GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 11  Những người dân tìm được nguồn vốn nhờ vay nợ dưới chuẩn là những nhà đầu tư trẻ mới bước vào nghề, họ trở thành những con cừu non để các công ty địa ốc dẫn dắt trong quá trình mua bán và hợp thức hóa chứng từ. Các công ty địa ốc nhận được tới 3% giá trị tiền vay nên các công ty địa ốc tiếp tục thổi bồng thị trường để nhận được món hoa hồng hậu hĩnh này. Điều này đã làm cho giá nhà tăng lên rất cao so với giá trị thực của nó. Trong quá trình chứng khoán hóa, thì các ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, công ty thẩm định rủi ro, các nhà bán lẻ trái phiếu, cùng các công ty quản lý thị trường, tất cả cũng đều hưởng những món tiền hoa hồng, môi giới và chi phí béo bở. Nói chung là tất cả những đối tác nằm trong “đường dây” này đều hưởng lợi từ túi tiền của người bán nhà, người đi vay mua nhà cùng các nhà đầu tư nhỏ. Với tâm lý muốn sở hữu một căn nhà, những người dân có thu nhập thấp không đủ trả lãi xuất cố định, họ đã lao đầu vào các gói vay vốn với lãi xuất điều chỉnh với niềm tin sau một thời gian giá nhà sẽ tăng và họ sẽ bán nhà và thu được lời. Lòng tham của các ngân hàng và tổ chức tài chính đã che mờ những rủi ro của việc giá bất động sản tăng cao lên rất nhiều so với giá trị thực và nhu cầu mua nhà chỉ là một nhu cầu ảo mà những người đầu tư, các nhà đầu cơ tạo ra để tăng giá bất động sản hình thành nên quả bong bóng bất động sản. Khi quả bong bóng này nổ, người dân không còn khả năng trả tiền vay hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói chứng khoán trả góp bị mất giá vì không nhà đầu tư nào muốn mua nữavà khủng hoảng xảy ra là tất yếu. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG THỨ CẤP 2.1. Thực trạng khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp tại Mỹ Những khó khăn trên thị trường bất động sản và cho vay thế chấp đã rất đáng quan ngại từ năm 2006, biểu hiện khủng hoảng đã xuất hiện với sự gia tăng nợ xấu và số tổ chức cho vay phá sản: hàng loạt công ty bất động sản rơi vào phá sản và giá cổ phiếu nhóm ngành bất động sản sụt giảm mạnh; giá trị các khoản vay dưới tiêu chuẩn lên đến trên 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ và con số này càng tăng GVHD: TS. Diệp Gia Luật CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm 5 Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”  Page 12  lên trong bối cảnh lãi suất tăng cao và bong bóng bất động sản bắt đầu xì hơi; khoảng 70 hãng cho vay cầm cố ở Mỹ đã ngừng hoạt động hoặc chờ rao bán. Tháng 6/2007: Bear Stearns, ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ đã thông báo hai trong nhiều quỹ bảo hiểm của họ đã mất hơn 1/2 tài sản do sự sụt giảm mạnh giá trị danh mục đầu tư cho vay thế chấp. Khách hàng không thể rút tiền và điều duy nhất họ có thể làm là theo dõi một cách vô vọng sự mất giá của các khoản đầu tư. Đến tháng 03/2008 Bear Stearns được bán cho Ngân hàng đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 triệu Đôla Mỹ. Theo số liệu điều tra, cuộc khủng hoảng này thực sự bùng phát vào tháng 8/2008, khi mà các ngân hàng thua lỗ tuyên bố phá sản ngày một tăng, ngày 9/8, NovaStar Financial công bố thua lỗ 52,9 triệu USD trong quý II do các khoản vay vỡ nợ, tổ chức cho vay thế chấp hàng đầu Mỹ, Countrywide Financial, phải đối mặt với nguy cơ phá sản do tính thanh khoản trở nên xấu hơn. American Home Mortgage, một trong những hãng cho vay cầm cố lớn nhất, cũng đệ đơn xin phá sản, nhiều quỹ cho vay bất động sản lớn khác cũng tuyên bố phá sản và hàng loạt ngân hàng quốc tế lớn công bố kết quả kinh doanh xấu trong lĩnh vực đầu tư vào bất động sản đã tác động mạnh đến thị trường tài chính thế giới. Nhưng tác động mạnh nhất khi Ngân hàng Parisbas của Pháp (BNP) rút 2,2 tỷ USD vốn và ngưng hoạt động 3 quỹ cho vay tiền mua nhà thứ cấp ở Mỹ vì lo sợ về tính thanh khoản của các khoản vay thế chấp ở Mỹ. Thông tin xấu trên thị trường tín dụng kéo theo sự hoảng loạn của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các NHTW đã sử dụng đ
Luận văn liên quan