Đề tài Khủng hoảng tài chính một thất bại lớn về mặt chính trị

Thị trường cho vay dưới chuẩnphát triển từ giữa thập niên 1990, theo đó nó cung cấp các khoản vay cho những đối tượng có mức tín nhiệm thấp Đạo luật tái phát triển cộng đồng tập trung vào mục tiêu xã hội là giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp được sửa đổi của chính quyền Bill Clinton vào 1995. Cách thức chính phủ Mỹ đã sử dụng các tổ chức tín dụng cho mục tiêu chính chính xã hội thông qua thị trường cho vay thế chấp nhà ( điển hình Fannie Mae và Freddie Mac ).

pdf26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính một thất bại lớn về mặt chính trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 1. Huỳnh Trung Dũng 2. Nguyễn Hoàng Lan 3. Nguyễn Thế Lộc 4. Vũ Thị Nga 5 Nguyễn Văn Phúc 6. Nguyễn Văn Thanh 7. Võ Thụy Vy 8. Chung Tư Hòa 9. Lê Huy Phương KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỘT THẤT BẠI LỚN VỀ MẶT CHÍNH TRỊ NỘI DUNG 1. Cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn – khơi mào cho khủng hoảng tài chính ?. 2. Những cảnh báo và sự phớt lờ của các chính trị gia. 3. Khủng hoảng tư bản và thị trường tài chính tự do. 1. Cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn – khơi mào cho khủng hoảng tài chính ?.  Thị trường cho vay dưới chuẩn phát triển từ giữa thập niên 1990, theo đó nó cung cấp các khoản vay cho những đối tượng có mức tín nhiệm thấp…  Đạo luật tái phát triển cộng đồng tập trung vào mục tiêu xã hội là giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp được sửa đổi của chính quyền Bill Clinton vào 1995.  Cách thức chính phủ Mỹ đã sử dụng các tổ chức tín dụng cho mục tiêu chính chính xã hội thông qua thị trường cho vay thế chấp nhà ( điển hình Fannie Mae và Freddie Mac ).  Fannie Mae (1938) và Freddie Mac(1970): được sự bảo trợ của chính phủ, hai tổ chức này đã nỗi lên như một thành phần quan trọng của thị trường cho thế chấp (sử dụng công cụ tài chính phái sinh dựa trên tài sản thế chấp ) . Cụ thể: mở rộng thị phần thị trường cho vay thế chấp đối với hộ gia đình từ 5,3% (1990) ->23% (2003), và trước khi xảy rả khủng hoảng Fannie Mae và Freddie Mac nắm giữ đến 70% các khoản đảm bảo cho vay mua nhà ở Mỹ.  Kết quả cuối năm 2007, đã có hơn 7 triệu hộ gia đình Mỹ có liên quan đến các khoản vay thế chấp dưới chuẩn) ~ 1.300 tỷ usd, gấp 4 lần so với năm 2003. Fed đã làm gì?  Đầu tiên để đối phó với sự suy giảm kinh tế sau sự kiện 11/09/2001, FED đã điều chỉnh giảm lãi suất vốn liên bang từ 6.5% (16/05/2000) xuống còn 1% (25/06/2003). => lãi suất thấp + giá nhà tăng liên tục + nới lỏng tiêu chuẩn cho vay của các định chế tài chính=> bóng bóng giá BĐS từ 2002 -2005. Fed đã làm gì?  Khi thấy phát sinh những dấu hiệu lạm phát, FED đã bắt đầu cho tăng lãi suất, nâng dần từ 1% vào năm 2004 để lên đến 5,25% mùa hè 2006 => bóng bóng BDS bắt đầu xì hơi, khơi mào chuẩn bị cho một cuộc khủng hoảng “dưới chuẩn”. Fed đã làm gì? Minh họa thêm… Tăng trưởng trong nợ thế chấp địa ốc hộ gia đình Cho vay địa ốc trở nên một ngày an toàn? Chứng khoán hóa “uống nước tăng lực” 2. Những cảnh báo và sự phớt lờ của các chính trị gia Từ những cảnh báo… -----------------------------------  Tờ New York Time năm 1999: Bài báo đã diễn tả những kế hoạch ban đầu nhằm sử dụng Fannie Mae và Freddie Mac để tạo ra sự dễ dàng cho vay thế chấp. “Bằng cách mở rộng các hình thức cho vay mà nó sẽ mua lại, Fannie Mae khuyến khích các ngân hàng cấp các khoản vay nhiều hơn đến với người dân với tiêu chuẩn tín dụng thấp”. Điều này, dẫn đến kỳ vọng đưa đến tăng đầu cơ mua nhà đối với những hộ dưới chuẩn và thu nhập thấp”, đáp lại việc gia tăng sức ép từ chính quyền Clinton. Vào những năm của thập kỷ 80, Peter.J.Wallison – một chuyên gia tài chính của Hiệp hội kinh doanh Hoa Kỳ: “ thật là nguy hiểm khi chính phủ ra tay giải cứu các khu vực tài chính ” . Năm 2001, ông ta biên tập 1 quyển sách về rất nhiều vấn đề tạo ra bởi Fannie Mae và Freddie Mac và Ngân hàng cho hệ thống tài chính Mỹ :”Tư nhân hoá Fannie Mae và Fredie Mac và Ngân hàng cho vay mua nhà liên bang- Tại sao và như thế nào”, đồng tác giả với Thomas A.Stanton Peter.J.Wallison và Bert Ely Alan Greenspan, sau này là Chủ tịch của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Trả lời chất vấn trước Hội đồng thượng nghị viện vào tháng 4/2005, ông ta đưa ra những dự báo rõ ràng về việc các chính sách xã hội thông qua các tổ chức cho vay có thể dẫn tới 1 tương lai khủng hoảng. Greenspan lưu ý rằng:”các nhà đầu tư nhận định rằng chính phủ sẽ không để các công ty cổ phần lớn sụp đổ”. Đã dẫn đến định giá quá cao giá trị của tài sản đảm bảo và đáng chú ý là tỷ lệ thế chấp thấp hơn trên thị trừơng tự do. Alan Greenspan Trong năm 2005, LewRockwell.com đã công bố bài diễn văn của Ron Paul trước Quốc hội Hoa kỳ, nơi ông cảnh bảo cuộc khủng hoảng sắp tới.“Tôi hy vọng rằng các đồng nghiệp của tôi cùng tôi bảo vệ những người nộp thuế từ việc giải cứu Fannie Mae và Fredie Mac khi bong bóng cho vay mua nhà sụp Ron Paul đổ” …đến sự phớt lờ của các chính trị gia “Hai thực thể - Fannie Mae và Freddie Mac – không đối diện với bất kỳ khủng hoảng tài chính nào”. Frank giải thích. Hơn nữa ông ta biện dẫn: “Càng nhiều người thổi phồng những vấn đề này, càng nhiều sức ép lên các công ty này, tài trợ mua nhà ở mức độ nhỏ hơn chúng ta thấy” Barney Frank, “ Chúng ta cần hơn 5.5 triệu nhà được sở hữu đến năm 2010- triệu là tối thiểu số nhà sở hữu đến 2010. (...)…chúng ta phải cố gắng để đạt được mục tiêu, tất cả chúng ta. Và bằng tất cả chúng ta, tôi muốn nói không chỉ là chính phủ liên bang mà khu vực tư cũng vậy” George Bush 3. Khủng hoảng tư bản và thị trường tài chính tự do. - Trong giai đoạn khủng hoảng nảy sinh nhiều điều luật, quy định để hạn chế rủi ro của thị trường tài chính. - Thị trường tự do là nền tảng tạo ra sự thịnh vượng trên toàn thế giới. - Thị trường tự do lan sang các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây của Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam và Ấn Độ đã kéo hàng triệu người thoát khỏi nghèo đói trong những năm gần đây. Tuy nhiên, khi thị trường được điều chỉnh làm cho năng lực làm việc của họ kém hiệu quả. 3. Khủng hoảng tư bản và thị trường tài chính tự do. - Thị trường tài chính càng tự do thì khả năng đầu tư vào các nước nghèo càng nhiều. Khu vực tư nhân có xu hướng tìm ra cách và phương tiện phá vỡ các quy định làm cho chúng không hiệu quả. Việt Nam và Khủng hoảng tài chính. Liệu Việt Nam có bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính ở Mỹ? - Các NH Việt Nam và các tổ chức tài chính không sở hữu chứng khoán bất động sản của Mỹ hay của Châu Âu, do đó không phải chịu khoản lỗ từ việc giảm giá các loại chứng khoán phái sinh này. - Lượng vốn các ngân hàng vay trên thị trường quốc tế không lớn, do đó không gây ra hiệu ứng rút vốn làm cạn kiệt nguồn vốn. - Các NH và tổ chức tài chính Việt Nam không có đòn bảy tài chính quá cao Việt Nam và Khủng hoảng tài chính.  Tuy nhiên, hệ thống tài chính Việt Nam ít nhiều cũng bị ảnh hưởng biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau: - Lãi xuất tăng nhanh làm chi phí giá thành tăng, gia tăng nợ quá hạn, nợ xấu. - Thị trường tiền tệ tài chính yếu đi nhanh và co hẹp nhiều, chứng khoán giảm sút rộng, sâu và liên tục. Việt Nam và Khủng hoảng tài chính. - Thị trường Bất động sản đóng băng, thị trường lao động bất ổn, việc làm giảm một số lao động ở các khu công nghiệp phải về nông thôn và tìm việc làm mới. - Hệ thống ngân hàng Việt Nam tuy chưa gắn bó sâu và rộng với hệ thống ngân hàng tài chính thế giới biểu hiện qua đầu tư và liên doanh liên kết ra bên ngoài. Nhận thức được tầm quan trọng của khủng hoảng lãnh đạo Việt Nam đã có những chủ trương rất nhanh, toàn diện thể hiện qua nội dung và giải pháp chống suy giảm kinh tế qua gói kích cầu và kích thích kinh tế tiếp theo, tập chung nhiều vào lĩnh vực tài chính ngân hàng như: hỗ trợ lãi suất cho vay, giảm thuế, gia hạn nộp thuế,… Việt Nam và Khủng hoảng tài chính. - Trong thời gian ngắn Việt Nam đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế xuất hiện nhiều yếu tố phục hồi tạo nên lòng tin cho đối tác quốc tế và trong xã hội.
Luận văn liên quan