Nền kinh tế của Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ 
nhất kể từ năm 1930, cuộc khủng hoảng này lớn hơn mọi cuộc khủng hoảng 
tài chính chu kỳ đã diễn ra trong lịch sử, nó không chỉ khiến cho nền kinh tế 
của Mỹ mà kinh tế của cả thế giới cũng lâm vào tình trạng suy thoái trầm 
trọng. Hệ thống Tài chính – Ngân hàng của Mỹ phải chứng kiến nhiều cuộc 
sụp đổ, thậm chí là sự phá sản của những định chế tài chính “gạo cội” có lịch 
sự hoạt động hơn một trăm năm. Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc xảy ra 
cuộc khủng hoảng này chính là những bất cập trong vấn đề giám sát hệ thống 
Tài chính – Ngân hàng tại Mỹ. Mô hình giám sát được đánh giá vào bậc tiên 
tiến và vững mạnh nhất thế giới cũng không thể lường trước và ngăn ngừa 
được rủi ro hệ thống.
Tại Việt Nam, nền kinh tế nói chung và hệ thống Tài chính – Ngân 
hàng nói riêng cũng đã hứng chịu ít nhiều những tác động tiêu cực theo xu thế 
suy thoái kinh tế của Mỹ và toàn cầu. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng tài chính 
Mỹ đã đặt ra một cơ hội để những nhà hoạch định chính sách trong nước đánh 
giá lại và rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong vấn đề giám sát 
hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam. Việc nghiên cứu cuộc khủng 
hoảng tài chính Mỹ từ góc độ giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng để 
xây dựng một mô hình giám sát vững mạnh cho hệ thống Tài chính – Ngân 
hàng trong nước, góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế là một 
yêu cầu cấp thiết đang đặt ra từng ngày.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 71 trang
71 trang | 
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2837 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính Mỹ và vấn đề giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
  i 
MỤC LỤC 
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 
LỜI MỞ ĐẦU 
Chƣơng I: LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ - HỆ 
THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH MỸ HIỆN NAY 
1. Tổng quan về hệ thống Tài chính – Ngân hàng của Mỹ. 
2. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay. 
2.1. Nguyên nhân sâu xa theo phân tích của nhóm nghiên cứu. 
2.1.1 Chứng khoán hoá và các công cụ phái sinh – điểm đặc sắc của cuộc 
khủng hoảng tài chính Mỹ 2008. 
3. Vai trò tất yếu của hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng. 
Chƣơng II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI 
CHÍNH – NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 
1. Tổng quan chung về hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam hiện nay. 
1.1. Giới thiệu. 
1.2. Một vài đặc trưng của hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam. 
1.2.1. Đặc trưng về mặt hoạt động vĩ mô của hệ thống tài chính – ngân hàng. 
1.2.2. Đặc trưng trên bình diện rủi ro hệ thống. 
2. Thực trạng hoạt động giám sát hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam 
hiện nay. 
2.1. Thực trạng. 
2.2. Đánh giá thực trạng hệ thống giám sát tài chính – ngân hàng ở Việt Nam. 
2.2.1. Kết quả đạt được. 
2.2.2. Những mặt hạn chế. 
3. Những diễn biến có thể dự đoán. 
  ii 
CHƢƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC 
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 
TẠI VIỆT NAM 
1. Định hướng của hoạt động giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại 
Việt Nam. 
2. Đề xuất các giải pháp. 
KẾT LUẬN 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
  iii 
DANH MỤC HÌNH VẼ 
Để cho thuận tiên, nhóm nghiên cứu gọi các bảng biểu, sơ đồ là hình vẽ. 
Hình 1. Tổ chức của Hệ thống dự trữ Liên bang 
Hình 2: CPI và lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp phi tài chính trong 
phần trăm GDP 
Hình 3: Một cách đơn giản mô hình hóa cuộc khủng hoảng Mỹ 
Hình 4: Lãi suất tại Mỹ 
Hình 5: Lãi suất cho vay thế chấp 
Hình 6: Tỷ lệ tiết kiệm tại Mỹ 
Hình 7: Cho vay dưới chuẩn và chất lượng các khoản tín dụng 
Hình 8: Quy trình của hoạt động chứng khoán hoá 
Hình 9: Sơ đồ phân nhánh các CDO từ MBS, ABS 
HÌnh 10: Mô hình bùng phát khủng hoảng do cạn kiệt nội sinh của chu trình 
tài chính 
  iv 
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 
NHTW: Ngân hàng Trung Ương 
NHQG: Ngân hàng Quốc gia 
NHNN: Ngân hàng Nhà nước 
TTCK: Thị trường chứng khoán 
CK: Chứng khoán 
TCNH: Tài chính – Ngân hàng 
HOSE: Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM 
HNX: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội 
OTC: Thị trường chứng khoán phi tập trung 
BHTG: Bảo hiểm tiền gửi 
BH: Bảo hiểm 
QTDND: Quỹ tín dụng nhân dân 
NHTM: Ngân hàng thương mại 
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế 
  1 
LỜI MỞ ĐẦU 
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu: 
Nền kinh tế của Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ 
nhất kể từ năm 1930, cuộc khủng hoảng này lớn hơn mọi cuộc khủng hoảng 
tài chính chu kỳ đã diễn ra trong lịch sử, nó không chỉ khiến cho nền kinh tế 
của Mỹ mà kinh tế của cả thế giới cũng lâm vào tình trạng suy thoái trầm 
trọng. Hệ thống Tài chính – Ngân hàng của Mỹ phải chứng kiến nhiều cuộc 
sụp đổ, thậm chí là sự phá sản của những định chế tài chính “gạo cội” có lịch 
sự hoạt động hơn một trăm năm. Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc xảy ra 
cuộc khủng hoảng này chính là những bất cập trong vấn đề giám sát hệ thống 
Tài chính – Ngân hàng tại Mỹ. Mô hình giám sát được đánh giá vào bậc tiên 
tiến và vững mạnh nhất thế giới cũng không thể lường trước và ngăn ngừa 
được rủi ro hệ thống. 
Tại Việt Nam, nền kinh tế nói chung và hệ thống Tài chính – Ngân 
hàng nói riêng cũng đã hứng chịu ít nhiều những tác động tiêu cực theo xu thế 
suy thoái kinh tế của Mỹ và toàn cầu. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng tài chính 
Mỹ đã đặt ra một cơ hội để những nhà hoạch định chính sách trong nước đánh 
giá lại và rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong vấn đề giám sát 
hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam. Việc nghiên cứu cuộc khủng 
hoảng tài chính Mỹ từ góc độ giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng để 
xây dựng một mô hình giám sát vững mạnh cho hệ thống Tài chính – Ngân 
hàng trong nước, góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế là một 
yêu cầu cấp thiết đang đặt ra từng ngày. Nhận thức rõ được vai trò và tầm 
quan trọng của vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “Khủng hoảng tài 
chính Mỹ và vấn đề giám sát hệ thống Tài chính – Ngân hàng tại Việt Nam” 
làm đề tài nghiên cứu. 
2. Đối tƣợng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu của đề tài: 
  2 
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 
2008 và vấn đề giám sát hệ thống Tài chính – Ngân Hàng tại Mỹ và Việt 
Nam. Đề tài có tầm bao quát và xem xét lại nhiều vấn đề trong quá khứ lâu 
dài về trước, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu tập trung vào khoảng thời gian từ 
năm 1999 đến nay, trước khi xảy ra hai sự kiện là bong bóng “dot.com” và 
khủng bố 11/9 tại Mỹ. Đề tài đặt mục tiêu nghiên cứu những bài học kinh 
nghiệm và rút ra giải pháp cho vấn đề giám sát hệ thống TCNH tại Việt Nam 
từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ. 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài. 
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp, 
thống kê, so sánh, sử dụng các số liệu nghiên cứu thứ cấp. Bên cạnh đó các 
phương pháp mô hình hóa sử dụng bảng biểu, đồ thị sẽ giải thích đặc điểm và 
nguyên nhân khủng hoảng một cách sinh động. 
4. Kết cấu của đề tài: 
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và phụ lục, bài viết có kết cấu như sau: 
 Chương I: Lý luận chung về khủng hoảng tài chính Mỹ và vấn đề giám 
sát hệ thống TCNH. 
 Chương II: Thực trạng hoạt động giám sát hệ thống TCNH tại Việt 
Nam hiện nay. 
 Chương III: Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động 
giám sát hệ thống TCNH tại Việt Nam. 
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến. 
 Đóng góp chủ yếu của đề tài là: i, Khái quát hóa cở sở lý luận về khủng 
hoảng tài chính Mỹ và kinh nghiệm trong hoạt động giám sát hệ thống TCNH 
tại Mỹ; ii, Phân tích năng lực của hoạt động giám sát tại Việt Nam hiện nay; 
iii, Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cho hoạt động giám sát hệ 
thống TCNH tại Việt nam. 
  3 
Do đây là một lĩnh vực có tính vĩ mô rất cao, cộng với trình độ người 
viết còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất 
mong các thầy, cô giáo và các bạn đóng góp, chỉ bảo để đề tài của nhóm 
nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn. 
  4 
Chƣơng I: LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ - HỆ 
THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH MỸ HIỆN NAY 
1. Tổng quan về hệ thống Tài chính – Ngân hàng của Mỹ. 
Hệ thống tài chính Mỹ được cho là một hệ thống phức tạp về cấu trúc 
và chức năng. Có nhiều loại hình tổ chức khác nhau: ngân hàng, công ty bảo 
hiểm, quỹ tương trợ, thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu…tất cả những 
tổ chức này đều được chính phủ giám sát. Hệ thống tài chính này chuyển 
nhiều tỉ đô la mỗi năm từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn để đầu 
tư. 
Ở Mỹ, các ngân hàng hoạt động trong một hệ thống quản lý ngân hàng 
kép (dual banking system) – nghĩa là cả chính quyền liên bang và tiểu bang 
đều có quyền kiểm soát đối với ngân hàng. Hệ thống này được thiết lập nhằm 
giúp chính quyền tiểu bang kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động ngân hàng trong 
phạm vi lãnh thổ của mình, đồng thời đảm bảo cho các ngân hàng được chính 
quyền tiểu bang và cộng đồng địa phương đối xử công bằng khi mở rộng hoạt 
động sang các bang khác nhau. Các cơ quan quản lý hệ thống tài chính quan 
trọng của chính phủ Mỹ là Hệ thống dự trữ liên bang (FED), Cục kiểm soát 
tiền tệ, Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC), Bộ Tư pháp, Ủy ban 
chứng khoán và hối đoái cũng có vai trò quản lý ngân hàng nhưng kém quan 
trọng hơn, trong khi đó Hội đồng ngân hàng bang là cơ quan quản lý cấp bang 
cao nhất của các ngân hàng Mỹ. 
 Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận 
tiền gửi vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải 
tiến hành những công việc đó trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây 
dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Các nhà ngân hàng thường nói 
với nhau rằng những ký tự FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation) – 
Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang – thực sự nghĩa là "Yêu cầu tăng vốn 
  5 
không ngừng" – Forever Demanding Increase Capital. FDIC và các cơ quan 
quản lý ngân hàng khác dường như không ngừng yêu cầu (ít nhất là đối với 
các ngân hàng của Mỹ) phải tăng vốn nhiều hơn, tăng cường cung cấp các báo 
cáo, mở rộng hơn nữa các dịch vụ công cộng… Ở Mỹ cũng như hầu hết các 
quốc gia khác, không một ngân hàng mới nào có thể thành lập nếu không 
được Chính phủ chấp thuận. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi 
và các công cụ tài chính khác cho công chúng để huy động vốn đều đòi hỏi 
phải có sự cho phép của các cơ quan quản lý ngân hàng. Chất lượng danh mục 
cho vay đầu tư cũng như sự hợp lý về vốn chủ sở hữu của ngân hàng luôn 
được các thanh tra ngân hàng xem xét cẩn thận. Khi một ngân hàng muốn mở 
rộng hoạt động bằng cách xây dựng một tòa nhà mới, sáp nhập với một ngân 
hàng khác, thiếp lập văn phòng chi nhánh hoặc tiếp nhận hay bắt đầu một hoạt 
động kinh doanh phi ngân hàng, trước hết nó phải nhận được sự đồng ý của 
cơ quan quản lý. Sau cùng, chủ sở hữu của một ngân hàng không thể đưa 
quyền đóng cửa và rút lui khỏi ngành nếu họ không có sự chấp thuận rõ ràng 
bằng văn bản từ chính cơ quan quản lý, nơi đã cấp quyết định thành lập ngân 
hàng. 
Các cơ quan quản lý ngân hàng tại Mỹ và chức năng của chúng 
Hệ thống dự trữ liên bang – Federal Reserve System 
 Giám sát và quản lý thường xuyên tất cả các ngân hàng được chính quyền 
tiểu bang cấp giấy phép (ngân hàng bang) và các công ty sở hữu ngân hàng 
hoạt động tại Mỹ. 
 Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên tiền gửi. 
 Thông qua các đơn vị sáp nhập, thiết lập chi nhánh, hoặc thực hiện chức 
năng tín thác. 
 Quyết định công nhận, giám sát và kiểm tra các công ty quốc tế hoạt động 
trong lĩnh vực ngân hàng tại Mỹ. 
Cục quản lý tiền tệ - Controller of Currency 
  6 
 Ban hành quyết định thành lập cho các ngân hàng nội địa mới. 
 Giám sát và kiểm tra thường xuyên tất cả các ngân hàng nội địa. 
 Thông qua tất cả các đơn vị sáp nhập, thiết lập chi nhánh, thực hiện chức 
năng tín thác. 
Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang – Federal Deposit Insurance 
Corporation (FDIC) 
 Bảo hiểm các khoản tiền gửi cho ngân hàng tuân thủ các quy định của công 
ty. 
 Thông qua tất cả các đơn vị sát nhập, thiết lập chi nhánh, thực hiện chức 
năng tín thác của những ngân hàng được bảo hiểm. 
 Yêu cầu mọi ngân hàng được bảo hiểm tập hợp các báo cáo về tình trạng 
tài chính của họ. 
Bộ Tƣ pháp – Department of Justice 
 Xem xét và thông qua các đề nghị sáp nhập của ngân hàng và công ty sở 
hữu ngân hàng. Nghiên cứu tác động của chúng đối với cạnh tranh và chấn 
chỉnh kịp thời nếu đề nghị này tác động tiêu cực đáng kể tới mức độ cạnh 
tranh trên thị trường. 
Ủy ban hối đoái và chứng khoán 
 Thông qua các đề nghị về việc phát hành chứng khoán của ngân hàng và 
của công ty sở hữu ngân hàng. 
Hội đồng ngân hàng bang – State Banking Board or Commission 
 Ban hành giấy phép thành lập ngân hàng mới. 
 Giám sát và kiểm tra thường xuyên tất cả các ngân hàng được cấp giấy 
phép của bang. 
 Có quyền thông qua tất cả đơn yêu cầu của các ngân hàng hoạt động trong 
phạm vi bang về việc thành lập công ty con, tiếp quản các chi nhánh, hoặc 
thành lập văn phòng chi nhánh mới. 
  7 
Bàn về sự độc lập của Fed 
Những quy định về ngân hàng và quản lý ngân hàng tại Mỹ được kiểm 
soát bởi Cục dự trữ liên bang (Fed). Cũng giống như mọi NHTW trên khắp 
thế giới, Fed tác động tới hoạt động hàng ngày của các ngân hàng nhiều hơn 
bất kỳ cơ quan nào khác của Chính phủ. Công việc chủ yếu là thực hiện chính 
sách tiền tệ, bao gồm việc đảm bảo sự vận hành thông suốt của hệ thống tài 
chính – ngân hàng, đảm bảo sự tương hợp của quá trình cung ứng tiền tệ và 
tín dụng với các mục tiêu kinh tế quốc gia. Bằng cách kiểm soát tốc độ tăng 
trưởng của mức cung tiền tệ và tín dụng (bao gồm các khoản cho vay và đầu 
tư chứng khoán của ngân hàng), Fed cố gắng đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế 
ở một tốc độ thích hợp, thất nghiệp được giữ ở mức thấp, duy trì lạm phát hợp 
lý và đảm bảo giá trị đồng USD trên thị trường quốc tế được giữ vững. Một 
điểm khác biệt rõ rệt của Fed so với các NHTW khác trên thế giới là Fed 
tương đối tự do trong việc theo đuổi những mục tiêu này bởi nó không phụ 
thuộc vào nguồn tài trợ của Chính phủ. Thay vào đó, Fed có thể tăng vốn của 
mình từ việc bán các dịch vụ và mua bán chứng khoán. Hàng năm, Fed 
chuyển phần lớn lợi nhuận vào Kho bạc Mỹ sau khi đã bổ sung vốn và trả lãi 
cho các ngân hàng nắm giữ cổ phần của Quỹ dự trữ liên bang. Ngược lại, các 
NHTW của Nhật, Anh, Pháp, Italy, Tây Ban Nha và các nước khác dường 
như được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ hơn của Chính phủ, và các nước này 
nói chung đều trải qua những giai đoạn lạm phát cao với nhiều vấn đề kinh tế 
trong những năm gần đây, điểm này nói lên rằng sự độc lập của Fed làm cho 
nó có thể đạt được các mục tiêu kinh tế dài hạn dễ dàng hơn (đặc biệt là kiềm 
chế lạm phát) do ít phải chịu áp lực chính trị. 
 Fed có một cấu trúc tổ chức rất lớn, phức tạp với nhiều bộ phận gần 
giống như bộ máy hành chính của Chính phủ (xem sơ đồ). Trung tâm ra quyết 
định và đồng thời có quyền lực lớn nhất trong hệ thống dự trữ liên bang là 
Hội đồng thống đốc (Board of Governors) tại Washington, DC. Tất cả các 
  8 
ngân hàng do Cục quản lý tiền tệ cấp giấy phép và một số ngân hàng thành 
viên bang sẵn sàng tuân thủ sự giám sát và quản lý của Fed được xem là ngân 
hàng thành viên. Các tổ chức thành viên phải mua cổ phiếu (tối đa là 6% vốn 
và thặng dư vốn) của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và phải chịu sự 
kiểm tra hoạt động toàn diện của Fed. Các ngân hàng thành viên của hệ thống 
dự trữ liên bang chỉ có một số ít đặc quyền bởi vì các dịch vụ của Fed được 
cung cấp cho tất cả các tổ chức nhận tiền gửi đặt dự trữ tại Fed. 
  9 
Hội đồng thống đốc 
Washington, DC 
(7 thành viên) 
Các ngân hàng thành 
viên của Hệ thống 
DTLB (gồm tất cả các 
ngân hàng Quốc gia và 
các ngân hàng bang 
được tham gia Hệ 
thống) 
25 chi nhánh của các 
ngân hàng DTLB ở các 
thành phố 
12 Ngân hàng Dự trữ 
liên bang (DTLB) khu 
vực 
Những người kinh doanh chứng 
khoán trên thị trường sơ cấp, đại 
diện cho các nhà đầu tư trên thị 
trường vốn và thị trường tiền tệ 
Phòng giao dịch tại ngân hàng Dự trữ 
liên bang New York (chỉ đạo bởi một 
phó chủ tịch của NHDTLB New York, 
người đồng thời quản lý danh mục 
chứng khoán của toàn bộ Hệ thống 
DTLB) 
Uỷ ban thị trường mở Liên bang 
(FOMC), gồm 7 thành viên Hội 
đồng thống đốc và 5 trong số 12 
chủ tịch của các ngân hàng Dự trữ 
liên bang) 
Chủ tịch của các 
ngân hàng Dự trữ 
có mặt trong 
Giám sát và 
quản lý 
Mua bán chứng 
khoán với 
Chính sách cho hoạt động 
hàng ngày của Fed trên thị 
trường mở được thực hiện 
bởi 
Giám sát và 
kiểm tra 
Chỉ định thông qua 
ban lãnh đạo và giám 
sát hoạt động của 
Bộ phận 
chính của 
 Hình 1. Tổ chức của Hệ thống dự trữ Liên bang 
  10 
2. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay. 
Đến thời điểm này, chúng ta có thể chính thức coi tháng 8 năm 2007 là 
điểm bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại. Đó là khi các NHTW 
phải can thiệp để cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Vậy đâu là 
nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng hiện tại, và những nét đặc trưng 
của cuộc khủng hoảng hiện tại so với những cuộc khủng hoảng trước đó. Cho 
đến nay, trên thế giới phần lớn các chuyên gia kinh tế, tài chính đều cho rằng 
có ba nguyên nhân không ít thì nhiều gây nên cuộc khủng hoảng tài chính 
hiện tại đó là. 
1. Tiết kiệm dư thừa – Saving glut: Trong đó Trung Quốc, các nước mới nổi, 
các nước xuất khẩu dầu thô đã có thặng dư mậu dịch lớn trong vài năm trước 
khi khủng khoảng xảy ra và đã dồn số tiền này vào Mỹ. 
2. Fed đã giữa lãi suất quá thấp quá lâu sau vụ vỡ bong bóng chứng khoán 
công ty công nghệ thông tin dot.com năm 2001. 
3. Nhiều sản phẩm tài chính mới ra đời tạo ra sự chủ quan giả tạo vì nhiều 
nhà đầu tư cho rằng họ đã phân tán được rủi ro. Ngoài ra những sản phẩm tài 
chính mới này (CDO, CDS) cũng làm các định chế tài chính phụ thuộc lẫn 
nhau nhiều hơn. 
Nhưng theo nhóm nghiên cứu, ba ý được cho là nguyên nhân trên chỉ là 
môi trường cho cuộc khủng hoảng hiện tại. Nguyên nhân căn bản sâu xa là 
vấn đề từ hệ thống giám sát hiện tại của nước Mỹ. Cụ thể hơn là cấu trúc hiện 
tại của hệ thống tài chính Mỹ đang có vấn đề trước sự phát triển của công 
nghiệp Ngân hàng - Tài chính. 
 Với lập luận thứ nhất cho rằng Trung Quốc và các nước mới nổi có 
thặng dư thượng mại lớn với Mỹ và đã đầu tư ngược lại số tiền lớn này vào 
Mỹ. 
  11 
Theo nhóm nghiên cứu lập luận này chưa thuyết phục. Bởi vì dòng vốn 
từ Trung Quốc và các nước mới nổi đổ vào Mỹ chỉ chiếm 5% GDP(1). Nên 
nếu nói dòng vốn này làm méo mó các quyết định tài chính thì rất thiếu thuyết 
phục. Trong khi tổng dòng vốn vào và ra của Mỹ lớn hơn nhiều, do vậy nếu 
nói dòng vốn vào là nguyên nhân thì phải chăng phải cấm hoàn toàn dòng vốn 
vào và ra chứ không chỉ là phần thặng dư 5%. 
Đúng là dòng vốn từ Trung Quốc và các nước mới nổi đổ vào Mỹ trong 
thập kỷ gần đây đã làm lãi suất thực giảm xuống thấp, dẫn đến bong bóng giá 
tài sản trong đó có nhà đất. Tuy nhiên bong bóng tài sản và bong bóng nhà đất 
chỉ là ngòi nổ của khủng hoảng chứ không phải cái căn gốc của vấn đề. Vấn 
đề lãi suất thấp cũng chỉ là thấp so với lịch sử chứ hiện tại thì chưa khẳng 
định được mức lãi suất đó là thấp. Cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay 
(S&L) những năm 80 sảy ra với mức lãi suất cao, trái ngược với hoàn cảnh 
hiện tại. Đáng ra với lãi suất thực thấp sẽ tốt cho nền kinh tế và hệ thống tài 
chính chứ không phải là điều cần phải loại bỏ. 
 Với lý do thứ hai cho rằng Fed đã duy trì mức lãi suất quá thấp sau giai 
đoạn bong bóng chứng khoán ngành công nghệ thông tin dotcom cuối năm 
2000. Theo nhóm nghiên cứu, không thể trách tội Fed, không thể buộc tội 
Alan Greespan chủ tịch của Fed lúc bấy giờ đã giữ lãi suất thấp quá lâu. Hãy 
nhìn vào CPI và GDP của Mỹ trong giai đoạn 2002 – 2004. 
(1)
 Mô thức mới cho thị trường tài chính_George Soros_Nhà xuất bản tri thức năm 2008. 
  12 
Hình 2: CPI và lợi nhuận trƣớc thuế của doanh nghiệp phi tài chính 
trong phần trăm GDP 
(Nguồn: Finance and Economics Discussion Series: 2008-06 Screen Reader version 
Challenges in macro-finance modeling) 
(Nguồn: Monetary Policy Report to the Congress, july 20, 2003) 
Giả sử trong giai đoạn này Fed tăng lãi suất để ngăn chặn bong bóng tài 
sản và bong bóng nhà đất, thì lấy gì đảm bảo nền kinh tế Mỹ không bị giảm 
  13 
phát, thậm chí là suy thoái từ thời điểm đó? Một hoàn cảnh khó khăn cho Fed 
khi mà nước Mỹ phải hứng chịu thêm vụ khủng bố lịch sử 11/9. Theo nhóm 
nghiên cứu, Fed không có sự lựa chọn nào khác để cho nền kinh tế Mỹ thoát 
khỏi suy thoái. Trong hoàn cảnh như vây, nhóm nghiên cứu tin rằng các nhà 
kinh tế và thị trường sẽ không chấp nhận ý tưởng Fed sẽ thay đổi mục tiêu 
lạm phát bằng mục tiêu giá tài sản. 
Với ý tưởng thứ 3 cho rằng “Nhiều sản phẩm tài chính mới ra đời tạo ra 
sự chủ quan giả tạo vì nhiều nhà đầu tư cho rằng họ đã phân tán được rủi ro. 
Ngoài ra những sản phẩm tài chính mới này (CDO, CDS) cũng làm các định 
chế tài chính phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn”. Ý tưởng này cũng chưa làm 
nhóm nghiên cứu thuyết phục, nhóm nghiên cứu đồng ý với ý kiến cho rằng 
những sản phẩm tài chính mới làm các định chế tài chính phụ thuộc lẫn nhau 
nhiều hơn. Trước tiên về vấn đề các sản phẩm tài chính mới được tạo ra nó 
thuộc phạm trù về sự đổi mới tài chính. Theo quan điểm kinh tế về sự suất 
hiện các sản phẩm tài chính mới này đồng tình rằng sự đổi mới này được tạo 
ra bởi vì các cá nhân và doanh nghiệp muốn làm cực đại lợi nhuận; nói khác 
đi, sự đổi mới – điều có thể vô cùng có lợi cho nền kinh tế - được điều khi