a) Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng tiền có trong lưu thông vượt quá nhu cầu
cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của tất cả các loại hàng hóa đều tăng lên.
b) Nguyên nhân của lạm phát:
- Lạm phát tiền tệ: Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền
vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu
thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế
- Lạm phát do cầu kéo (lạm phát nhu cầu): Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt
quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu dẫn tới lạm phát gọi là lạm phát do
cầu kéo. Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng hoặc do tốc độ lưu
thông tiền tệ (V) tăng. Khối lượng tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra
áp lực lạm phát. Còn tốc độ lưu thông tiền tệ tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị
khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho dân chúng mất lòng tin vào chế độ tiền tệ của
nhà nước, gây tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá, số vòng quay của tiền tệ tăng lên.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng đẩy giá cả tăng
lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ chúng ta gọi đó là lạm
phát do chi phí đẩy. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân
đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Ngoài ra các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt
thép cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đã đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến
sức ép đòi tăng giá bán.
9 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, mối quan hệ giữa tự do hoá tài chính và khủng hoảng tài chính tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 / 9
Tiểu luận
Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam, mối quan hệ giữa tự
do hoá tài chính và khủng hoảng tài chính tiền tệ
Trang 2 / 9
I. Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
1. Sơ lược về lạm phát
a) Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng tiền có trong lưu thông vượt quá nhu cầu
cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của tất cả các loại hàng hóa đều tăng lên.
b) Nguyên nhân của lạm phát:
- Lạm phát tiền tệ: Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền
vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu
thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế
- Lạm phát do cầu kéo (lạm phát nhu cầu): Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt
quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu dẫn tới lạm phát gọi là lạm phát do
cầu kéo. Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng hoặc do tốc độ lưu
thông tiền tệ (V) tăng. Khối lượng tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra
áp lực lạm phát. Còn tốc độ lưu thông tiền tệ tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị
khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho dân chúng mất lòng tin vào chế độ tiền tệ của
nhà nước, gây tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá, số vòng quay của tiền tệ tăng lên.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng đẩy giá cả tăng
lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ chúng ta gọi đó là lạm
phát do chi phí đẩy. Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân
đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Ngoài ra các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt
thép … cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đã đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến
sức ép đòi tăng giá bán.
- Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến số cung thiếu: Khi nền kinh
tế đi gần đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất như nhân công, nguyên vật
liệu, máy móc, thiết bị … gần như đã được tận dụng, số cung hàng hóa và dịch vụ cho
thị trường dần dần chậm lại. Bên cạnh đó tình trạng tắc nghẽn cũng giới hạn số cung.
Đó là tình trạng các yếu tố sản xuất thặng dư ở một nơi, nhưng lại khan hiếm ở nơi
khác, không lưu chuyển được từ nơi thừa sang nơi thiếu khiến cho nơi thiếu không thể
tăng them khối lượng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Hàng hóa khan hiếm
làm cho giá cả của nó tăng lên. Ngoài ra, số cung có thể không tăng hoặc tăng quá ít vì
cơ cấu kinh tế không cho phép tạo ra hàng hóa và dịch vụ đủ thỏa mãn nhu cầu đang gia
tăng trên thị trường ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng. Đây là trường hợp
lạm phát do sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển không
hiệu quả.
c) Tác động của lạm phát:
- Tác động phân phối lại thu nhập và của cải: Khi lạm phát xảy ra, những người
có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả các loại tài sản nói chung đều
tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Còn những người làm công ăn lương,
những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại. Để tránh thiệt hại, một số
nhà kinh tế đưa ra cách điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ lãi suất
Trang 3 / 9
thực là 3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên sự điều chỉnh
này chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện lạm phát thấp.
- Tác động đối với sự phát triển kinh tế và việc làm: Trong điều kiện nền kinh tế
chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có
tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân. Còn giữa lạm phát
và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến. Khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm
xuống và ngược lại.
- Các tác động khác:
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị
mất cân đối.
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá
hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính
cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu.
Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi
vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi cho xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,
nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán.
Lạm phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng
thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán bị sai lệch nhiều theo thời
gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư.
Lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn thu ngân
sách nhà nước giảm do sản xuất bị suy thoái.
2. Các biện pháp kiểm soát lạm phát ở Việt Nam:
- Nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước làm
chủ đạo: tạo sự cạnh tranh bình đẳng; Nhà nước có công cụ kinh tế hữu hiệu cho kiểm
soát thị trường; tạo ra lượng cung hàng hoá đủ lớn đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Cần nhất quán với chính sách tỷ giá linh hoạt có kiểm soát, xem xét vấn đề hợp
tác khu vực về tỷ giá tiến tới xây dựng đồng tiền chung: phát huy khả năng kiểm soát
lạm phát của các nước có tiềm lực mạnh trên thế giới; đảm bảo giá trị của đồng Việt
nam so với các ngoại tệ mạnh.
- Tăng cường hợp tác sâu rộng với các nước trên thế giới: tạo nguồn cung hàng
hoá phong phú; nâng cao tăng trách nhiệm của các nước, các nhà đầu tư quốc tế trong
việc tăng cường các biện pháp hỗ trợ kiểm soát lạm phát vì lợi ích kinh tế của chính
mình.
- Giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia.
- Tăng cường các biện pháp hành chính để kiểm soát việc tăng giá: xây dựng và
phát huy vai trò của các cơ quan quản lý thị trường; xây dựng giá trần hợp lý đối với
những mặt hàng mà sự cạnh tranh còn hạn chế; áp dụng các biện pháp mạnh (phạt tiền,
tước quyền kinh doanh,…) đối với những trường hợp cấu kết để nâng giá thị trường,…
Trang 4 / 9
II. Mối quan hệ giữa tự do hoá tài chính và khủng hoảng tài chính tiền tệ
1. Tự do hoá tài chính
a. Khái niệm
Tự do hóa tài chính là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và giao
dịch tài chính. Các hoạt động tài chính được tự do thực hiện theo tín hiệu thị trường.
Như vậy, Bản chất của tự do hóa tài chính là:
- Hoạt động tài chính được thực hiện theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường.
- Các dòng vốn được tự do lưu chuyển đến bất cứ đâu, nơi thu được hiệu quả cao
nhất, tùy thuộc vào ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp bất cứ sự ngăn cản phi
kinh tế nào.
b. Nội dung của tự do hoá tài chính
- Chính phủ phải kiểm soát được chính sách tài khóa và thực thi chính sách tài khóa
có hiệu quả - Các thâm hụt trong chính sách tài khóa phải được loại trừ và ổn định
được mức giá. Nguồn thu của nhà nước phải chuyển dần sang khu vực tư nhân.
- Mở cửa thị trường vốn trong nước sao cho người gửi tiền nhận được lãi suất thực
đã điều chỉnh theo lạm phát, mở cửa thị trường vốn trong nước và tự do hóa lãi
suất.
- Tự do hóa tỷ giá hối đoái. Theo đó, trong cán cân thanh toán quốc tế, tốt nhất là
nên tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai một cách nhanh chóng hơn so
với dòng vốn quốc tế.
- Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn
- Tự do hóa các dịch vụ tài chính: các dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan
đến bảo hiểm; dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác
c. Lợi ích của tự do hoá tài chính:
- Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài
chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính
nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
- Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung
cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản
phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
- Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công
nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
- Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách
kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế
mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở
khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Tóm lại, lợi ích tối thượng của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh tranh
bình đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc
quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất
lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng
Trang 5 / 9
cường chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô
nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với
những bất thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế.
d. Những mặt trái của tự do hóa tài chính
- Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng
tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự
hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và
quốc tế.
- Thứ hai: tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực
đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích
quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ
làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục
tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục
đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài
chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị
bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống
chế và điều khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó
có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị
trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện
tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi
ích của người tiêu dùng.
2. Giới thiệu chung về khủng hoảng tài chính-tiền tệ.
a. Khái niệm:
Quan điểm thế giới:
Một nhóm lớn các tổ chức tài chính có giá trị nguồn vốn vượt quá giá trị thị trường
của các tài sản, dẫn đến hiện tượng đổ xô đến ngân hàng và sự dịch chuyển cơ cấu đầu
tư, sự sụp đổ của một số doanh nghiệp tài chính và cần thiết phải có sự can thiệp của
nhà nước.
Quan điểm của Việt nam về khái niệm khủng hoảng tài chính tiền tệ
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể
dẫn đến sụp đổ quỹ.
b. Đặc điểm của khủng hoảng TCTT:
- Cầu về tiền dự trữ quá lớn khiến cho ngân hàng không thể cùng một lúc đáp ứng
tất cả mọi người.
- Có hiện tượng khan hiếm tín dụng.
- Giá trị tài sản của ngân hàng giảm mạnh và gây ra hiện tượng mất khả năng trả nợ,
một số ngân hàng sụp đổ và xuất hiện tình trạng đổ xô đến các ngân hàng.
- Các “bong bóng” giá tài sản nổ tung: sự sụt giá ban đầu trong giá trị các tài sản
buộc các ngân hàng phải bán tiếp tài sản và làm giá tài sản tiếp tục giảm mạnh hơn
nữa.
- Các khoản tín dụng hình thành trong thời điểm bùng nổ được mang ra bán tháo.
Trang 6 / 9
c. Biểu hiện của khủng hoảng TCTT:
- Tình trạng tồi tệ của toàn bộ bộ máy tài chính – tín dụng quốc gia
- Sự phá vỡ tài chính nhà nước, hệ thống thanh toán
- Sự phá sản của các định chế tài chính trung gian
- Phá giá nội tệ, áp lực lạm phát
3. Mối quan hệ giữa tự do hoá tài chính và khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá thì tự do hoá tài chính trở thành mục tiêu tất yếu
của mỗi quốc gia khi thực hiện quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Như đã phân
tích ở trên, những lợi ích thu được khi tự do hóa tài chính là không nhỏ nhưng quá trình
này cũng có những mặt trái của nó. Đó là: dễ gây ra khủng hoảng tài chính nếu tự do
hóa tài chính không được tiến hành theo những bước hợp lý và thiếu đồng bộ với những
chính sách vĩ mô khác; thị trường tài chính trong nước có thể bị thao túng bởi các thế
lực bên ngoài, Chính phủ dễ mất quyền điều tiết thị trường đặc biệt quan trọng này
nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Một số nguy cơ mà tự do hóa tài chính có thể tạo ra:
Thứ nhất, nguy cơ tiền tệ hay đúng hơn là nguy cơ mất giá nội tệ do chính sách tỷ
giá hối đoái không hợp lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nước
ngoài. Biện pháp đối phó với tình huống này là phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ như
trường hợp của Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore trong đợt khủng hoảng tài
chính vừa qua.
Thứ hai, nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn
hạn. Để đối phó với các nguy cơ này, có thể tham khảo một số kinh nghiệm của các
nước như Chile: nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp phải giữ tiền mặt trong nước
tối thiểu một năm và từ tháng 9/1998, các nhà đầu tư tài chính nước ngoài phải đóng
một loại thuế dưới dạng nộp vào quỹ dự trữ 30% tổng số tiền cho vay nhưng không
được hưởng lợi tức. Đồng thời, đánh thuế 1,2% trên toàn bộ vốn đưa vào không kể
thời hạn. Ngoài ra, việc hạn chế đổi ngoại tệ cũng góp phần ngăn chặn nguy cơ tiền
tháo chạy.
Thứ ba, đó là nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn như
trường hợp của Thái Lan vừa qua. Nguy cơ này càng nghiêm trọng khi xảy ra biến
động tỷ giá hối đoái, giá bất động sản, đặc biệt là biến động giá trị của tài sản thế
chấp vay ngân hàng và giá chứng khoán.
Để “hóa giải” nguy cơ này, Chính phủ phải có hệ thống giám sát tài chính hiệu quả,
nhằm ngăn chặn những khoản đầu tư quá nhiều rủi ro. Ngoài ra, có thể sử dụng một
số biện pháp hạn chế chuyển đổi tiền tệ và kiểm soát chặt các luồng vốn ngắn hạn từ
bên ngoài.
Thứ tư, nguy cơ mất chủ quyền là vấn đề mà quốc gia nào cũng lo ngại khi tự do
hóa tài chính. Bởi khi xảy ra biến cố, Chính phủ buộc phải hy sinh một số mục tiêu
kinh tế xã hội, xiết chặt ngân sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và chương trình xã
hội, chấp nhận trợ giúp nước ngoài”...
Trang 7 / 9
Tuy nhiên, tự do hoá tài chính không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng
hoảng tài chính. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá tài chính có chăng chỉ lật
tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ
mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài
chính. Nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu
kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản
lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch
trong đường lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài
chính.
4. Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam
a. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997
- Những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ
thống chính sách quản lý vĩ mô:
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh
tế gọi là bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của
mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn. Kinh tế Đông Nam Á tăng
trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá
nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính
sách vô hiệu hóa đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng
vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại
trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau
năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãn lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đóError!
Bookmark not defined., Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng
lẻo và chính sách tự do hoá tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù
đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ
ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
- Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức. Các
nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài
sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước Châu
Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn
ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước
châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính
phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo
Trang 8 / 9
hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bất chấp mạo hiểm để đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
- Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những
cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Thị trường bất động sản của Thái Lan đổ vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản.
Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi
phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một
số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước
ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lực xử lý khủng hoảng
yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu
Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến
nổi cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối Nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm
kéo dài.
b. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro về việc tự doa hoá tài chính, kinh
nghiệm mở cửa thị trường của các nước trong khu vực (Trung Quốc, Thái Lan…) và
thực tiễn cải cách hệ thống tài chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, một số
khuyến nghị có thể rút ra là:
Thứ nhất: Việt Nam tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính
với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng
lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế.
Thứ hai: Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền
với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc
dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm
xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Thực
trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự
thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua
những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập.
Thứ ba: Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải
cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiế hành toàn diện
cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với
những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính sách tỷ giá,
quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng