Đề tài Kiến nghị các biện pháp quản lý nhập khẩu thay thế hạn ngạch nhập khẩu mà Việt Nam nên áp dụng

1. Khái niệm chung về hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị mộ mặt hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Hạn ngạch nhập khẩu thường là 1 hình thức hạn chế về số lượng và thuộc hệ thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho 1 loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra 1 định ngạch (tổng định ngạch) nhập khẩu mặt hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá đó từ đâu đến. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó chỉ được nhập khẩu từ nước (thị trường) đã định với số lượng bao nhiêu, trong thời gian bao lâu. Thường hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập khẩu cho một số công ty. Mỗi doanh nghiệp được phép phân bổ một số lượng tối đa các mặt hàng trong 1 năm. 2. Tác động tích cực của hạn ngạch nhập khẩu - Bảo hộ sản xuất trong nước, ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào. - Sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ : cải thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh toán. - Thực hiện các cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài. - So với thuế quan, sự bảo hộ bằng hạn ngạch mang lại hiệu quả chắc chắn hơn, bởi vì ảnh hưởng của việc tăng thuế nhập khẩu đối với số lượng hàng hoá có thể nhập khẩu phụ thuộc vào sự co giãn về giá cả của những hàng hoá này. Nhưng với chế độ hạn ngạch thì số lượng hoặc giá trị nhập khẩu đã được khống chế, do đó không thể biến động, trừ khi có sự thay đổi về chính sách. Nhận thấy được những mặt tích cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại, các Chính phủ đã áp dụng biện pháp này trong một thời gian nhất định để bảo vệ các ngành sản xuất của nước mình. 3. Tác động tiêu cực của hạn ngạch nhập khẩu - Làm tăng giá cả hàng hoá trong nước cao hơn so với giá quốc tế. Hạn ngạch giống như thuế nhập khẩu luôn luôn nâng giá hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa vì hạn ngạch nhập khẩu ảnh hưởng đến mức cung nên giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Tác động này của hạn ngạch cho phép các nhà sản xuất kém hiệu quả, sản xuất ra một sản lượng cao hơn so với trong điều kiện thương mại tự do. Từ đó đưa đến hiện tượng độc quyền kinh doanh và sự trì trệ của các doanh nghiệp trong nước. - Hạn ngạch mang tính hành chính, không có sự bình đẳng công khai nên tạo ra tính chất độc quyền. - Tính dự báo của hạn ngạch thấp. Những căn cứ cho Chính phủ để xác định hạn ngạch nhập khẩu là: + Nhu cầu trong nước (nhu cầu có khả năng thanh toán) + Trình độ sản xuất của mặt hàng nhập khẩu + Cam kết của các Chính phủ : thực hiện qua các hiệp định ký kết với nhau - Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của cải xã hội. 4. Xu hướng áp dụng hạn ngạch nhập khẩu Trước những tác động tiêu cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại cho nền kinh tế cũng như xã hội; ngày nay, các nước trên thế giới đều có xu hướng thôi không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng nhập khẩu nữa mà thay vào đó, xuất hiện một xu thế mới đó là áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan khác. Ví dụ như : hạn ngạch thuế quan, hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ, v.v

doc14 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3396 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kiến nghị các biện pháp quản lý nhập khẩu thay thế hạn ngạch nhập khẩu mà Việt Nam nên áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hạn ngạch nhập khẩu – Một biện pháp quản lý nhập khẩu liệu có còn phù hợp? PHẦN I - TỔNG QUAN 1. Khái niệm chung về hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị mộ mặt hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Hạn ngạch nhập khẩu thường là 1 hình thức hạn chế về số lượng và thuộc hệ thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho 1 loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra 1 định ngạch (tổng định ngạch) nhập khẩu mặt hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá đó từ đâu đến. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó chỉ được nhập khẩu từ nước (thị trường) đã định với số lượng bao nhiêu, trong thời gian bao lâu. Thường hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập khẩu cho một số công ty. Mỗi doanh nghiệp được phép phân bổ một số lượng tối đa các mặt hàng trong 1 năm. 2. Tác động tích cực của hạn ngạch nhập khẩu Bảo hộ sản xuất trong nước, ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào. Sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ : cải thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh toán. Thực hiện các cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài. So với thuế quan, sự bảo hộ bằng hạn ngạch mang lại hiệu quả chắc chắn hơn, bởi vì ảnh hưởng của việc tăng thuế nhập khẩu đối với số lượng hàng hoá có thể nhập khẩu phụ thuộc vào sự co giãn về giá cả của những hàng hoá này. Nhưng với chế độ hạn ngạch thì số lượng hoặc giá trị nhập khẩu đã được khống chế, do đó không thể biến động, trừ khi có sự thay đổi về chính sách. Nhận thấy được những mặt tích cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại, các Chính phủ đã áp dụng biện pháp này trong một thời gian nhất định để bảo vệ các ngành sản xuất của nước mình. 3. Tác động tiêu cực của hạn ngạch nhập khẩu - Làm tăng giá cả hàng hoá trong nước cao hơn so với giá quốc tế. Hạn ngạch giống như thuế nhập khẩu luôn luôn nâng giá hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa vì hạn ngạch nhập khẩu ảnh hưởng đến mức cung nên giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Tác động này của hạn ngạch cho phép các nhà sản xuất kém hiệu quả, sản xuất ra một sản lượng cao hơn so với trong điều kiện thương mại tự do. Từ đó đưa đến hiện tượng độc quyền kinh doanh và sự trì trệ của các doanh nghiệp trong nước. Hạn ngạch mang tính hành chính, không có sự bình đẳng công khai nên tạo ra tính chất độc quyền. Tính dự báo của hạn ngạch thấp. Những căn cứ cho Chính phủ để xác định hạn ngạch nhập khẩu là: + Nhu cầu trong nước (nhu cầu có khả năng thanh toán) + Trình độ sản xuất của mặt hàng nhập khẩu + Cam kết của các Chính phủ : thực hiện qua các hiệp định ký kết với nhau Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của cải xã hội. 4. Xu hướng áp dụng hạn ngạch nhập khẩu Trước những tác động tiêu cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại cho nền kinh tế cũng như xã hội; ngày nay, các nước trên thế giới đều có xu hướng thôi không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng nhập khẩu nữa mà thay vào đó, xuất hiện một xu thế mới đó là áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan khác. Ví dụ như : hạn ngạch thuế quan, hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ, v.v… PHẦN II- THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HẠN NGẠCH NHẬP KHẨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM I- Tình hình sử dụng hạn ngạch nhập khẩu trên thế giới 1. Quy định của WTO về hạn ngạch nhập khẩu Điều XI – GATT/1994 quy định các nước thành viên không được sử dụng hạn ngạch nhập khẩu với lý do là nó làm ảnh hưởng nhiều đến thương mại thế giới. Biện pháp này bị cấm sử dụng bởi 2 lý do chủ yếu sau: Một là, các biện pháp định lượng (hạn ngạch nhập khẩu) nói riêng và các biện pháp phi thuế quan nói chung không thể hiện tính minh bạch như thuế quan do tính pháp lý không cao bằng thuế và thời gian quy định thông thường chỉ trong vòng 1 năm. Hai là, hạn ngạch và các biện pháp hạn chế định lượng dễ biến tướng hơn thuế quan. Nhiều khi chỉ cần thay đổi tên gọi nhưng thực chất bên trong của nó vẫn chỉ là hạn ngạch (VD : Các biện pháp quản lý theo kế hoạch định lượng, quản lý theo cơ quan chuyên ngành, …). Tuy nhiên, tại điều XVIII – GATT/1994, WTO vẫn cho phép được sử dụng hạn ngạch trong những trường hợp đặc biệt như: Áp dụng hạn ngạch nhằm hạn chế tạm thời, ngăn ngừa, khắc phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực, thực phẩm hay các sảm phẩm thiết yếu khác. Áp dụng hạn ngạch nhằm bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán của nước mình. Khi sự thâm hụt nghiêm trọng về dự trữ tiền tệ, hoặc có một số dự trữ quá ít, cần thiết phải nâng mức dự trữ lên một mức hợp lý. Các nước đang phát triển có thể áp dụng hạn chế số lượng trong chương trình trợ giúp của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển kinh tế, hoặc hạn chế để bảo vệ cho một số ngành công nghiệp. Ngoài ra còn được áp dụng trong các trường hợp như: bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ động thực vật quý hiếm, xuất nhập khẩu vàng bạc, tài sản quốc gia liên quan đến văn hoá nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Khi sử dụng hạn ngạch, WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực hiện các điều kiện kèm theo như: Thực hiện biện pháp này phải kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng trong nước. Cam kết không làm ảnh hưởng tới lợi ích của các nước thành viên khác, đồng thời phải dần dần nới lỏng biện pháp này khi kinh tế đã khôi phục, sau đó dỡ bỏ hoàn toàn nhằm thực hiện nguyên tắc chung của WTO. Do tính pháp lý không cao và thời gian thông thường chỉ một năm trở lại, nên khi tiến hành áp dụng hạn ngạch. Các quốc gia phải thông báo thời gian cụ thể và những thay đổi nếu có. 2. Thực tế áp dụng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu của EU Theo quan điểm của các nước EU, hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế về số lượng hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu và được sử dụng để điều chỉnh nguồn cung. Biện pháp hạn ngạch đang được thay thế dần bằng các biện pháp thuế quan. EU sử dụng hạn ngạch chủ yếu đối với 2 mặt hàng chủ yếu là hàng dệt may và hàng nông sản. Đối với hàng dệt may, hạn ngạch phổ biến nhất ở EU là hạn ngạch vế số lượng, loại hạn ngạch này giảm xuống theo Điệp định Đa sợi (MFA) và gần đây là Hiệp định đối với hàng dệt may ATC/WTO. Theo hiệp định dệt may (ATC) mới này thì tất cả các quốc gia và WTO cam kết sẽ tiến hành huỷ bỏ dần hạn ngạch cho đến năm 2005 khi đó tất cả các hạn ngạch đối với hàng dệt may sẽ được hoàn toàn bãi bỏ. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, như đã đề cập ở trên, hạn chế số lượng đã dần được EU thay thế bằng thuế quan. Đối với hàng nông sản, hiện nay EU sử dụng rào cản kỹ thuật và các biện pháp kiểm dịch là chủ yếu, chỉ có riêng mặt hàng gạo EU có áp dụng một số những hạn ngạch ưu đãi cho một số nước nhất định. Nhu cầu nhập khẩu gạo của EU không nhiều, mỗi năm nhập khẩu khoảng 150 ngàn tấn gạo và ngũ cốc từ các nước thành viên của WTO. Do phải thực hiện kết quả vòng đàm phán Urugoay, nên trong số đó EU dành 36 nghìn tấn miễn thuế, 20 nghìn tấn thuế suất 88 euro/tấn, 71 nghìn tấn thuế suất 28 euro/ tấn cho nước Mỹ, Australia, Thái Lan và Guanne. Mỗi năm EU chỉ dành khoảng 100 nghìn tấn cho mọi xuất xứ với mức thuế 28 euro/ tấn, còn lại đánh thuế suất rất cao khoảng 416 euro/ tấn đối với gạo nguyên hạt và 128 euro/ tấn đối với gạo rẫy. Việt Nam chỉ có thể tham gia xuất khẩu vào 100 nghìn tấn với mức thuế suất 128 euro/tấn nói trên. Do vậy ngoài các rào cản kỹ thuật và kiểm dịch, việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng nông sản vào EU vẫn được thực hiện thông qua hệ thống thuế và giá khởi điểm. 3. Thực tiễn áp dụng hạn ngạch nhập khẩu ở Hoa Kỳ Hoa Kỳ là nước có nền kinh tế phát triển nhanh và mạnh nhất trên thế giới, là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là một trong những thành viên sáng lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù phần lớn các ngành sản xuất của Mỹ có tiềm năng rất lớn, hàng hoá của Mỹ cũng chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ hàng hoá của các nền kinh tế khác như EU, Nhật Bản hay Trung Quốc, v.v… Do đó Chính phủ Mỹ cũng sử dụng một số biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước cũng như nâng sức cạnh tranh của hàng hoá mình trên thị trường thế giới, ví dụ như biện pháp sử dụng hạn ngạch nhập khẩu. Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu của Mỹ do Cục Hải quan của nước này quản lý. Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm 2 loại chính: 3.1- Hạn ngạch thuế quan (Tarriff-rate quota) Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập vào với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không có hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này, nhưng số lượng nhiều trên mức quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn nhiều thậm chí nhiều lần so với mức thuế trong hạn ngạch. Trong đa số các trường hợp thì các hàng hoá xuất khẩu của các nước thuộc khối XHCN (trước đây) không được hưởng ưu đãi của hạn ngạch theo mức thuế. Các mặt hàng chịu hạn ngạch thuế quan bao gồm: Sữa và kem không đặc hoặc không đường hay các chất ngọt khác, với lượng chất béo theo trọng lượng vượt quá 1% nhưng không quá 6%. Ethyl alcohol Olive Satsuma (mandarin) Cá ngừ Bông Lúa mỳ Một số mặt hàng thuộc các nước NAFTA (Mexico, Canada) Một số mặt hàng theo quy định của WTO Một số mặt hàng nông sản theo hiệp định Hoa Kỳ – Israel. 3.2- Hạn ngạch tuyệt đối (Absolute quota) Đây là hạn ngạch giới hạn về số lượng, tức là số lượng hàng hoá vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không được nhập vào Mỹ trong thời gian của hạn ngạch. Một số quota là áp dụng chung, còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota, cho đến khi bắt đầu thời hạn quota mới. Các mặt hàng chịu hạn ngạch tuyệt đối là: Thức ăn gia súc có thành phần sữa hoặc các sản phẩm sữa; Sản phẩm thay thế bơ có chứa 45 % bơ béo theo HTS 2160.90.15 và bơ từ dầu ăn; Bơ pha trộn, trên 55.5% nhưng không quá 45% trọng lượng là bơ béo; Pho mát làm từ sữa chưa thanh trùng để thời gian chưa quá 9 tháng; Sữa khô theo HTS 9904.10.15; Sữa khô chứa 505% hoặc ít hơn trọng lượng là bơ béo; Chocolate crumb và các sản phẩm liên quan có chứa trên 505% trọng lượng là bơ béo; Chocolate crumb chứa 505% hoặc ít hơn trọng lượng bơ béo; Ethyl alcohol và các sản phẩm dùng chất này trong nhiên liệu nhập từ vùng Caribe và các vùng lãnh thổ phụ thuộc Hoa Kỳ theo HTS 9901.00.50; Thịt từ Australia và New Zealand; Sữa và kem dạng lỏng hay đông lạnh, tươi hoặc chua (từ New Zealand). Thủ tục hải quan thông thường áp dụng cho các hàng hoá khác cũng được áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu theo hạn ngạch. Mức thuế quan hạn ngạch thường được tính trên số lượng hàng hoá khác được nhập từ đầu kỳ áp dụng hạn ngạch cho đến khi người ta thấy là lượng hàng nhập đã chiếm gần hết hạn ngạch. Sau đó Giám đốc Hải quan quận sẽ được chỉ thị phải yêu cầu chó dặt cọc số tiền thuế tạm tính với mức thuế dành cho lượng hàng vượt quá hạn ngạch và phảo báo cáo thời gian nhập khẩu chính thức của mỗi lần nhập hàng. Sau đó sẽ có một thông báo cuối cùng về ngày giờ mà hạn ngạch nhập khẩu đã dùng hết và tất cả các Giám đốc Hải quan quận sẽ được thông báo về việc đó. Một số hạn ngạch tuyệt đối thường hết ngay sau khi bắt đầu thời hạn áp dụng hạn ngạch. Do đó, mỗi hạn ngạch thường được tuyên bố chính thức vào 12h trưa, hoặc vào các khoảng thời gian tương ứng ở các múi giờ khác nhau vào một ngày ấn định. Khi tổng số lượng hàng hoá nhập vào lúc bắt đầu thời hạn áp dụng hạn ngạch mà vượt quá hạn ngạch, thì hàng hoá sẽ được giải phóng theo cách tính thuế trên cơ sở theo tỉ lệ giữa tổng số hàng được nhập theo hạn ngạch và số lượng thực sự nhập khẩu. Điều này đảm bảo việc phân bổ hạn ngạch công bằng. Hàng hoá không được coi là nhập khẩu với mục đích xin ưu tiên theo hạn ngạch cho đến tận khi hồ sơ tóm tắt việc nhập khẩu hoặc đơn xin rút lui hàng ra khỏi kho ngoại quan để tiêu thụ được trình theo đúng thủ tục và hàng hoá đã nằm trong phạm vi cảng khẩu. 4. Thực tiễn áp dụng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu tại Nhật Bản Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán nhu cầu về hàng hoá và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa năm tài chính (từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và Ngoại thương (MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo nhập khẩu hàng năm của MITI có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin được hạn ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý ngoại hối hay của các cơ quan quản lý khác. Ví dụ, vào năm 1995, ở Nhật Bản có 66 mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch nhập khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu tại Nhật Bản được phân cho các nhà nhập khẩu theo một trong các chế độ sau: Chế độ theo dõi, thực hiện việc phân bổ hạn ngạch. Theo chế độ này, hạn ngạch được phân bổ cho nhà nhập khẩu căn cứ vào tỷ lệ hạn ngạch nhập khẩu của họ trong thời kỳ trước đó so với tổng trị giá hay khối lượng của hạn ngạch của nhóm hay một mặt hàng. Chế độ theo dõi thực hiện việc thông quan. Theo chế độ này, hạn ngạch được phân bổ căn cứ vào tổng số lượng hay trị giá hạn ngạch dự tính hoặc đã thực hiện của thời gian trước đó của nhà nhập khẩu. Chế độ thông báo chính thức. Theo chế độ này, các cơ quan nhà nước quy định trước cho nhà nhập khẩu các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Mức hạn ngạch được quy định trước này được ghi rõ trong các thông báo chính thức gửi cho các nhà nhập khẩu. Chế độ theo đơn đặt hàng. Hạn ngạch phân bổ căn cứ vào số lượng hay trị giá hàng đã được đặt mua bởi người tiêu dùng cuối cùng. Chế độ theo đầu doanh nghiệp. Theo chế độ này, số lượng hay trị giá hạn ngạch được phân bổ bình đẳng cho các nhà nhập khẩu. Chế độ này thường được dùng đi đôi với một trong hai chế độ theo dõi trên. Chế độ Olympic “ai xin trước cấp trước”. Hạn ngạch nhập khẩu được phân theo nguyên tắc “ai xin trước được cấp trước” cho đến khi đạt được một nửa số lượng hay trị giá cụ thể nào đó. Chế độ phân bổ hạn ngạch nhập khẩu này thường áp dụng cho các nhà nhập khẩu có tài liệu thông quan cho một mặt hàng cụ thể nào đó trong một thời gian nhất định trong quá khứ và nhà nhập khẩu này đã ký hợp đồng nhập khẩu mặt hàng đó. Chế độ đồng thuận của các quan chức về phân bổ hạn ngạch. Theo chế độ này, các quan chức của MITI và các bộ khác sẽ bàn bạc để quyết định hạn ngạch phân bổ cho các nhà nhập khẩu. II- Hạn ngạch nhập khẩu ở Việt Nam 1. Tình hình chung Những năm trước đây Việt Nam cũng đã sử dụng biện pháp hạn ngạch khá phổ biến đối với cả hàng xuất và hàng nhập khẩu. Nhưng sau năm 1995, bắt đầu chuyển sang biện pháp chỉ quản lý hàng nhập. Từ năm 2001, theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ, thì biện pháp mang tên là “hạn ngạch” coi như không còn. Tuy nhiên trên thực tế những biện pháp tương đương hạn ngạch vẫn được sử dụng đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Một số biện pháp tương đương hạn ngạch Năm  Tên gọi  Danh mục mặt hàng   1996  Các mặt hàng có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.  Xăng dầu Phân bón Xi măng Đường Thép xây dựng   1997  Các mặt hàng có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.  Xăng dầu Phân bón    Các vật tư, hàng hoá được đáp ứng chủ yếu bằng nguồn sản xuất trong nước.  Xi măng Đường ăn Sắt, thép, phôi thép   1998  Hàng hoá, vật tư nhập khẩu có cân đối với sản xuất và nhu cầu trong nước  Xăng dầu Phân bón Thép xây dựng các loại Xi măng các loại Giấy viết, giấy in các loại Kính xây dựng Đường tinh luyện, đường thô Rượu   1999  Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện (giấy phép của Bộ Thương mại)  Xăng dầu Phân bón Xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy và linh kiện lắp ráp đồng bộ Ô tô du lịch dưới 15 chỗ Một số chủng loại thép Xi măng đen Đường tinh luyện, đường thô Giấy viết, giấy in các loại Kính xây dựng Rượu   2000  Hàng hoá nhập khẩu có giấy phép của Bộ Thương mại  Gạch ceramic và granit có kích thước dưới 400x400mm Xi măng Poóclăng, clinker Kính màu, kính trắng phẳng có độ dày từ 1,5-12mm Giấy in báo, giấy viết không tráng Một số chủng loại thép xây dựng Dầu thực vật tinh chế dạng lỏng Đường tinh luyện, đường thô Xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy và linh kiện lắp ráp đồng bộ, máy, khung xe Ô tô từ 16 chỗ ngồi chở xuống   Hạn ngạch nhập khẩu Việt Nam đã áp dụng Mặt hàng  Mức hạn chế số lượng áp dụng năm 1997  Mức hạn chế số lượng áp dụng từ 1999   Ô tô chở khách dưới 12 chỗ  3.000 chiếc  Cấm nhập (áp dụng với ô tô dưới 16 chỗ ngồi từ năm 2000)   Xe tải, xe khách loại khác  30.000 chiếc  Giấy phép nhập khẩu   Xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiện lắp ráp xe 2 bánh gắn máy  350.000 chiếc  Cấm nhập khẩu Các doanh nghiệp trong nước có đầu tư sản xuất, lắp ráp xe 2 bánh gắn máy dạng IKD, theo năng lực sản xuất phù hợp với giấy phép kinh doanh đã cấp   Thép xây dựng  500.000 tấn  Giấy phép nhập khẩu   Phôi thép  900.000 tấn  Giấy phép nhập khẩu   Xi măng  500.000-700.000 tấn  Chỉ áp dụng giấy phép nhập khẩu đối với xi măng đen.   Clinke  1.100.000 tấn  Giấy phép nhập khẩu   Giấy in chất lượng cao, giấy carton, duplex  20.000 tấn  Giấy phép nhập khẩu   Đường  10.000 tấn đường RE cấm nhập các loại đường khác  Giấy phép nhập khẩu     2. Đánh giá những tác động của biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch trong một số ngành ở Việt Nam và khả năng cắt giảm 2.1- Ngành mía đường Ngành mía đường là một ngành có đặc thù là sử dụng nguyên liệu đầu vào của ngành nông nghiệp, thu hút khá nhiều lao động và có tầm quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp do đó cần có sự bảo hộ của Chính phủ. Việt Nam áp đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với đường thô, đường trắng và đường tinh luyện. Năm 1998, Bộ Thương mại đã ra Thông tư số 01/1998/XNK quy định hạn ngạch nhập khẩu đường cho cả năm là 80.000 tấn, trong đó có 60.000 tấn đường thô và 20.000 tấn đường tinh. Việc nhập khẩu đường thô được phân bổ cho một số doanh nghiệp do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ định và các lô đường nhập khẩu phải đến Việt Nam trước ngày 30-08-1998 (trước mùa thu hoạch mía). Quy định này đã góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ quyền lợi cho người trồng mía, tránh tình trạng “được mùa nhưng rớt giá”. Việc nhập khẩu đường tinh chế do Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý và chỉ được cho phép khi nhu câù trong nước tăng cao mà sản xuất chưa đáp ứng được. Các biện pháp hạn chế định lượng như trên đã tạo ra hàng rào bảo hộ cao cho ngành mía đường Việt Nam. Năm 1999, tỷ lệ bảo hộ của các biện pháp phi thuế quan đối với ngành mía đường là 24%, v.v… Đến nay, ngành mía đường Việt Nam đang dần khẳng định được chỗ đứng của mình, sản lượng hàng năm đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và bước đầu đã xuất khẩu (năm 2000 xuất khẩu khoảng 100.000 tấn, năm 2001 khoảng 120.000 tấn). Việt Nam đã có chương trình cải tạo giống mía nhằm tăng năng suất, giảm giá nguyên liệu, nâng cao sức cạnh tranh của đường mía. Trước tình hình đó, Chính phủ cũng đã có một số thay đổi về chính sách nhập khẩu mặt hàng này như áp dụng hạn ngạch thuế quan thay thế cho biện pháp cấm nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu để có thể tiếp tục bảo hộ ngành mía đường nhưng phù hợp với điều lệ và chính sách thương mại quốc tế. 2.2- Ngành thép và xi măng Nhà nước áp dụng hạn ngạch nhập khẩu từ năm 1996 và 1997 với một số loại thép xây dựng và xi măng đen. Nhờ việc Chính phủ áp đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với một số sản phẩm thép, các cơ sở sản xuất thép kém chất lượng đã tranh thủ kiếm được ít lợi nhuận từ việc bán những sản phẩm thép chất lượng thấp này cho người tiêu dùng trong nước. Trên thực tế, tiềm năng phát triển của ngành thé