Văn học hiện đại Việt Nam trong vòng một thập niên trở lại đây đã chứng kiến một bước tiến mới trong thể loại truyện ngắn, một loạt những cây bút trẻ nổi lên trên văn đàn với những tác phẩm xuất sắc mà đặc biệt là có sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ. Cùng với Y Ban, Võ Thị Hảo, Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến cho truyện ngắn hiện đại Việt Nam một luồng gió mới. Ở cô người đọc thấy được một phong cách đậm chất Nam Bộ thể hiện rõ nét qua ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh và đặc biệt là thông qua hệ thống các nhân vật trong các sáng tác của mình.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không ai trong mỗi chúng ta khi gấp cuốn sách lại mà không thở dài một tiếng, không thốt lên một câu xót xa “ Sao mà lại buồn đến thế!”. Phải rồi, trong con người mỗi chúng ta luôn luôn tồn tại một tiềm thức về cái gọi là : “Ở hiền gặp lành”, đọc một câu chuyện thì thường thích một cái kết có hậu, cuộc đời nhân vật sẽ sang một trang mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn Thế nhưng chúng ta lại quên đi mất một điều, rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn; có những con người “ Ở hiền mà chẳng gặp lành”, có những số phận không phải sống trong một cái kết may mắn, hạnh phúc mà là một cái kết trong những bi kịch. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư để lại dư vị sâu đậm trong lòng người đọc cũng vì đã thể hiện được điều đó. Đọc các tác phẩm của cô, người đọc nặng trĩu một nỗi buồn, tất cả các nhân vật dường như sống trong những nỗi buồn, những nỗi cô đơn, những bi kịch của cuộc đời để rồi kết thúc câu chuyện vẫn là cái buồn, vẫn là cái cô đơn, cái bi kịch ấy. Nó làm day dứt lòng bạn đọc, nó bắt bạn đọc phải thoát ra khỏi cái tiềm thức vẫn tồn tại bấy lâu, nó bắt đọc giả phải suy nghĩ, phải trăn trở về số phận của nhân vật để từ đó thừa nhận một điều rằng: cuộc sống vẫn còn có rất nhiều những bi kịch như thế về con người, thay vì chúng ta sống mãi trong những cái kết thúc có hậu đôi khi là sự sắp đặt thì chúng ta hãy sống với sự thật này, hãy dũng cảm để đối mặt với nó. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ám ảnh bạn đọc chính là ở điều này. Hình ảnh những con người cô đơn có lẽ là hình ảnh để lại cho độc giả những nỗi niềm day dứt và trăn trở nhất. Nhân vật của cô xuất hiện trong sự cô đơn và kết thúc vẫn ở trong nỗi cô đơn ấy. Tìm hiểu về kiểu nhân vật này trong các sáng tác của cô cũng chính là đi khám phá thế giới tâm hồn của Nguyễn Ngọc Tư, một tâm hồn trong trẻo nhưng nặng trĩu nỗi niềm của một người phụ nữ luôn nhìn mọi người trong sự cô đơn đồng thời cũng thấy được những quy luật của cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm.
43 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7919 | Lượt tải: 11
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểu nhân vật cô đơn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Văn học hiện đại Việt Nam trong vòng một thập niên trở lại đây đã chứng kiến một bước tiến mới trong thể loại truyện ngắn, một loạt những cây bút trẻ nổi lên trên văn đàn với những tác phẩm xuất sắc mà đặc biệt là có sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ. Cùng với Y Ban, Võ Thị Hảo, Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh… Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến cho truyện ngắn hiện đại Việt Nam một luồng gió mới. Ở cô người đọc thấy được một phong cách đậm chất Nam Bộ thể hiện rõ nét qua ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh và đặc biệt là thông qua hệ thống các nhân vật trong các sáng tác của mình.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không ai trong mỗi chúng ta khi gấp cuốn sách lại mà không thở dài một tiếng, không thốt lên một câu xót xa “ Sao mà lại buồn đến thế!”. Phải rồi, trong con người mỗi chúng ta luôn luôn tồn tại một tiềm thức về cái gọi là : “Ở hiền gặp lành”, đọc một câu chuyện thì thường thích một cái kết có hậu, cuộc đời nhân vật sẽ sang một trang mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn…Thế nhưng…chúng ta lại quên đi mất một điều, rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn; có những con người “ Ở hiền mà chẳng gặp lành”, có những số phận không phải sống trong một cái kết may mắn, hạnh phúc mà là một cái kết trong những bi kịch. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư để lại dư vị sâu đậm trong lòng người đọc cũng vì đã thể hiện được điều đó. Đọc các tác phẩm của cô, người đọc nặng trĩu một nỗi buồn, tất cả các nhân vật dường như sống trong những nỗi buồn, những nỗi cô đơn, những bi kịch của cuộc đời để rồi kết thúc câu chuyện vẫn là cái buồn, vẫn là cái cô đơn, cái bi kịch ấy. Nó làm day dứt lòng bạn đọc, nó bắt bạn đọc phải thoát ra khỏi cái tiềm thức vẫn tồn tại bấy lâu, nó bắt đọc giả phải suy nghĩ, phải trăn trở về số phận của nhân vật để từ đó thừa nhận một điều rằng: cuộc sống vẫn còn có rất nhiều những bi kịch như thế về con người, thay vì chúng ta sống mãi trong những cái kết thúc có hậu đôi khi là sự sắp đặt thì chúng ta hãy sống với sự thật này, hãy dũng cảm để đối mặt với nó. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ám ảnh bạn đọc chính là ở điều này. Hình ảnh những con người cô đơn có lẽ là hình ảnh để lại cho độc giả những nỗi niềm day dứt và trăn trở nhất. Nhân vật của cô xuất hiện trong sự cô đơn và kết thúc vẫn ở trong nỗi cô đơn ấy. Tìm hiểu về kiểu nhân vật này trong các sáng tác của cô cũng chính là đi khám phá thế giới tâm hồn của Nguyễn Ngọc Tư, một tâm hồn trong trẻo nhưng nặng trĩu nỗi niềm của một người phụ nữ luôn nhìn mọi người trong sự cô đơn đồng thời cũng thấy được những quy luật của cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là cây bút nữ trẻ được biết đến nhiều trong thời gian khoảng một thập niên trở lại đây, với những truyện ngắn đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau, sau đó là một loạt những giải thưởng cao mà cô nhận được. Cho đến nay, cô đã có nhiều truyện ngắn và tập truyện ngắn được xuất bản như : Ngọn đèn không tắt (2000), Nước chảy mây trôi (2005), Cánh đồng bất tận (2005), Gió lẻ (2008)… và gần đây nhất là tập Khói trời lỗng lẫy mới được ra mắt bạn đọc vào tháng 11/2010 vừa rồi cùng với sự kiện chuyển thể thành công bộ phim Cánh đồng bất tận từ tác phẩm cùng tên của mình. Có thể nói ngay từ khi ra mắt bạn đọc những tác phẩm đầu tay của mình, “ những đứa con đẻ” của cô đã nhận được rất nhiều sự đánh giá, phê bình của độc giả. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được nghiên cứu và phê bình, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Có nhà nghiên cứu gọi cô là “ Đặc sản miền Nam” sau khi đã đi tìm hiểu về giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh trong các tác phẩm của cô ( Trần Hữu Dũng- Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam- Diễn đàn viet-studies.info, 2/2004.). Không gian trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng là đối tượng cho nhiều nhà nghiên cứu hướng đến. Có thể kể đến các bài nghiên cứu được đăng tải trên website : w.w.w.viet-studies.info như Nguyên Ngọc với: Không gian…của Nguyễn Ngọc Tư, Đoàn Nhã Văn với bài : Nắng, gió, vịt và đàn bà giữa những cánh đồng bất tận, Thụy Khuê với bài Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư…Từ đó có những nghiên cứu, đánh giá về phong cách truyện ngắn của cô.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính chuyên sâu về Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn của cô, hầu hết đó là các bài nghiên cứu, bình luận trên các website hoặc các bài nghiên cứu khoa học hay niên luận, khóa luận của sinh viên, một vài luận văn thạc sĩ. Hi vọng rằng trong một ngày không xa những người hâm mộ truyện ngắn của cô sẽ có những chuyên luận sâu hơn để tìm hiểu về Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn của nhà văn nữ đầy bản lĩnh này.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Trong bài báo cáo này chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu một kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể nói qua các tác phẩm của cô người đọc thấy xuất hiện một số kiểu nhân vật nổi bật như kiểu nhân vật bi kịch, nhân vật sám hối, nhân vật trên hành trình kiếm tìm hạnh phúc… ở trong bài viết này chúng tôi xin được nói về kiểu nhân vật cô đơn - một kiểu nhân vật để lại khá nhiều ấn tượng sâu sắc cho độc giả.
Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và nghiên cứu kiểu nhân vật cô đơn qua các tập truyện ngắn đã được xuất bản của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, cụ thể ở đây là ba tập truyện ngắn: Cánh đồng bất tận ( xuất bản năm 2005), Gió lẻ ( xuất bản năm 2008) và tập truyện gần đây nhất là Khói trời lộng lẫy (xuất bản tháng 11 năm 2010). Và trọng tâm chủ yếu là tập truyện thành công nhất của cô, hiện đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên : Cánh đồng bất tận.
Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích tác phẩm.
Phương pháp khảo sát, thống kê.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp tổng phân hợp.
Đóng góp của đề tài
Hiện nay những nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trên các phương diện nội dung, nghệ thuật ngày càng được mở rộng, thông qua bài viết này, ngoài mục đích hiểu rõ thêm về Nguyễn Ngọc Tư và truyện ngắn của cô chúng tôi còn hi vọng có thể đóng góp một phần nào nghiên cứu của mình vào việc nghiên cứu chung về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trên khía cạnh về nhân vật. Hi vọng bài viết nhỏ bé này sẽ được dùng như một tài liệu hữu ích cho các bạn sinh viên yêu thích tác giả Nguyễn Ngọc Tư và mong muốn tìm hiểu về cô và các truyện ngắn của mình.
Cấu trúc bài báo cáo khoa học
Ngoài phần mở đầu gồm 5 mục trên trong bài báo cáo này chúng tôi đi làm rõ những nội dung sau:
NỘI DUNG
Phần I .Nguyễn Ngọc Tư và quan niệm về con người, nghệ thuật
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
1.2 Nguyễn Ngọc Tư và quan niệm về con người, nghệ thuật.
Phần II Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
2.1 Cô đơn của người nghệ sĩ trên con đường kiếm tìm hạnh phúc.
2.2 Cô đơn của con người giữa biển người mênh mông.
Phần III Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
3.1 Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
3.2 Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật
3.3 Xây dựng nhân vật gắn với các biểu tượng
KẾT LUẬN
DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO.
NỘI DUNG
PHẦN 1
NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI, NGHỆ THUẬT
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một gia đình nghèo. Năm lớp 9, gia đình cô xảy ra biến cố lớn: Ông nội mất, điều kiện gia đình lại khó khăn, cô phải dừng việc học của mình ở đây. Tuy nhiên điều này không hề làm sức sáng tạo của cô ngừng lại mà trái lại càng trong khó khăn sức sáng tạo ấy càng trở nên mãnh liệt và giàu giá trị. Dưới sự động viên của cha, Nguyễn Ngọc Tư đã “ viết những gì mà mình nghĩ”, viết những gì mà cô đã trải qua. Sau ba truyện ngắn được đăng trên Tạp chí văn nghệ bán đảo Cà Mau, Nguyễn Ngọc Tư đã được nhận làm văn thư và học làm phóng viên báo tại đây. Ngoài đời Nguyễn Ngọc Tư là một người phụ nữ chân chất, hồn nhiên và rất có bản lĩnh. Cô lập gia đình với một người thợ kim hoàn và đến nay đã có hai bé trai. Hiện cô đang sống tại thành phố Cà Mau và đang làm việc cho Tạp chí bán đảo Cà Mau.
Tác phẩm đầu tiên đánh giá sự thành công của cô, đưa cô chính thức bước vào làng văn đó là tập kí sự Nỗi niềm sau cơn bão đạt giải ba toàn quốc báo chí năm 1997. Từ đó đọc giả bắt đầu biết đến tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư qua các tác phẩm đã được xuất bản như:
Ngọn đèn không tắt ( Tập truyện , NXB Trẻ 2000)
Ông ngoại ( Tập truyện thiếu nhi, NXB Trẻ 2001)
Biển người mênh mông ( Tập truyện, NXB Kim Đồng 2003)
Giao thừa ( Tập truyện, NXB Trẻ 2005)
Nước chảy mây trôi ( Tập truyện và kí, NXB Văn nghệ TP.HCM, 2004)
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ( Tập truyện, NXB Văn hóa Sài Gòn 2005)
Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư ( NXB Trẻ 2005).
Cánh đồng bất tận ( Tập truyện, NXB Trẻ 2005).
Ngày mai của những ngày mai ( Tạp văn, NXB Phụ nữ 2007).
Gió lẻ ( Tập truyện, NXB Trẻ 2008).
Khói trời lộng lẫy ( Tập truyện, NXB Trẻ 2010).
Có thể nói nếu coi tập kí sự Nỗi niềm sau cơn bão của Nguyễn Ngọc Tư là tác phẩm đánh dấu bước khởi đầu trong hành trình trên con đường tiến vào làng văn Việt Nam thì tập truyện Cánh đồng bất tận được xem như một ngã rẽ đầu tiên đưa nhà văn bước vào một con đường dài rộng hơn. Với sự thành công mang một tiếng vang lớn, Cánh đồng bất tận đã một lần nữa khẳng định tên tuổi của cô trong giới văn nghệ sĩ trẻ một thập niên đầu của thế kỷ 21. Tiếp sau Cánh đồng bất tận, với Gió lẻ và Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tư đã thu hút bạn đọc với những bước đi mạnh dạn, thể hiện những nét mới lạ trong sáng tác của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 2000- 2008 cô đã nhận được rất nhiều giải thưởng trong đó phải kể đến : Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II – Tác phẩm Ngọn đèn không tắt năm 2000; Giải B Hội nhà văn Việt Nam- tập truyện Ngọn đèn không tắt năm 2000; Tặng thưởng dành cho các tác giả trẻ - Ủy Ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 được TW Đoàn trao tặng; Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006- Tập truyện Cánh đồng bất tận; Giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á, 2008.
Với một loạt những thành công liên tiếp ấy Nguyễn Ngọc Tư ngày càng khẳng định được tài năng và vị trí của mình trên văn đàn. Với một sức trẻ dồi dào và đầy nhiệt huyết, chắc chắn trong thời gian sắp tới cô sẽ còn mang đến cho bạn đọc nhiều bất ngờ hơn nữa về “ những đứa con đẻ” của mình.
1.2 Nguyễn Ngọc Tư và quan niệm về con người, nghệ thuật
Một người phụ nữ chỉ học hết lớp 9 vì điều kiện gia đình khó khăn giờ đây lại trở thành một nhà văn trẻ nổi tiếng trên văn đàn trong thời hiện đại này có lẽ đây là điểm khiến chúng tôi thấy bất ngờ và khâm phục nhất. Ở Nguyễn Ngọc Tư chắc hẳn phải có một cái “ Duyên thầm” với văn chương, với nghệ thuật. Cô đã từng tâm sự rằng cảm hứng với văn chương của cô có lẽ bắt đầu từ bài giảng về đoạn trích “ Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng khi cô vẫn đang còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường: “Cô giáo dạy bọn em (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) bài “Trong lòng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng) hay lắm, cả lớp đều khóc. Có thể em đã mê viết văn từ đó.” ( Gặp nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau– Nguyễn Thị Dư Khánh). Và rồi cái niềm đam mê văn chương của cô được gửi gắm qua con người và cùng đất Nam Bộ. Tại quê hương, nơi cô được sinh ra và lớn lên những cảnh vật, những con người, những mảnh đời, những giọng nói đã để lại trong cô nỗi ám ảnh sâu sắc. Nguyễn Ngọc Tư viết về mảnh đất Nam Bộ, về con người Nam Bộ với một lòng nhiệt thành sâu sắc mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra khi đọc truyện ngắn của cô.
Trong truyện ngắn của mình Nguyễn Ngọc Tư thường ám ảnh bạn đọc bởi số phận của những con người bất hạnh, có những nỗi khổ riêng, có khi là về tình yêu ( anh Hết trong Hiu hiu gió bấc, Huệ, Thi trong Huệ lấy chồng…), có khi về lẽ sống ( Vĩnh trong Sầu trên đỉnh Puvan), cũng có khi là khát vọng về một cuộc sống bình thường nào đó hay chỉ đơn giản là được hòa nhập với cuộc sống đời thường (Nương, Điền trong Cánh đồng bất tận). Nhân vật của cô luôn mang trong mình những nỗi hận, hận đời, hận người (người cha trong Cánh đồng bất tận), mong muốn về một cuộc sống mới mẻ, tươi đẹp hơn ( ông Tư Mốt trong Thương quá rau răm), có khi đó là những con người trên hành trình kiếm tìm hạnh phúc…Tất cả những nhân vật của cô hiện lên trong những bi kịch riêng không phải để thể hiện cái chán nản, kêu ca của họ trong cuộc sống mà là để chứng mình rằng họ là những con người đi ra từ đời sống thật, nhà văn đã sống cùng nỗi khổ của họ, vui cùng niềm vui khi có chút tia hi vọng và rồi buồn, khóc, thất vọng cùng khi cái tia nhỏ nhoi ấy tắt ngấm đi một cách nhanh chóng, không hề có chút vương vấn, níu kéo gì…
Văn chương của Nguyễn Ngọc Tư giản dị, gần gũi mà sâu sắc, thấm thía. Các truyện ngắn của cô luôn làm ám ảnh bạn đọc. Nhiệm vụ của nghệ thuật là phải phản ánh được đối tượng mà nó hướng đến một cách sâu sắc nhất, với Nguyễn Ngọc Tư quan niệm về nghệ thuật của cô là một cái gì đó rất giản dị, không hề cao siêu chút nào; nghệ thuật trong văn chương là hướng ngòi bút của mình đến con người, những con người của đời thực. Với Nguyễn Ngọc Tư con người mà cô thể hiện trong văn chương rất gần gũi , đó là những người dân Nam Bộ mà cô gặp và tiếp xúc hàng ngày, nhưng ở họ dường như lại mang những nỗi ám ảnh, những nỗi buồn, những bi kịch. Nhân vật của cô từ những đứa trẻ đến những thanh niên, cụ già; từ người phụ nữ đến những người đàn ông…tất cả dường như sống trong bi kịch. Nhà văn đã đi sâu vào những bi kịch của nhân vật, khai thác, mổ xẻ nó qua tâm trạng nhân vật, từ đó thể hiện quan niệm của mình về con người đồng thời cũng thể hiện quan niệm của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật với cô chỉ đơn giản là làm sao thể hiện được cho chuẩn xác nhân vật trong tác phẩm của mình.
PHẦN 2
KIỂU NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Có thể nói cô đơn là một cảm hứng lớn trong văn học Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn văn học lãng mạn hơn ba mươi năm đầu của thế kỷ XX. Khi người nghệ sĩ không tìm thấy chỗ đứng của mình trong xã hội, khi con người thoát ly khỏi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng lại không hòa hợp được với cuộc sống xã hội nhố nhăng, nhũng nhiễu lúc bấy giờ, họ tự tách mình ra khỏi cộng đồng thì khi ấy cảm giác cô đơn đến với họ là một điều tất yếu:
“Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
Một đời người u uất nỗi chơ vơ.”
( Vũ Hoàng Chương).
Còn những con người của văn học thế kỷ XXI nhất là trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư lại khác. Cảm giác cô đơn đến với họ không phải vì họ muốn tách ra khỏi cộng đồng mà trái lại họ tìm cách hòa mình vào xã hội nhưng vẫn không chen nổi vào đời sống, không tìm thấy tiếng nói chung với những người xung quanh mình. Cô đơn vì không biết chăm sóc đến đời sống tinh thần, mải miết kiếm tìm giá trị vật chất ( Đất màu- Ma Văn Kháng). Cô đơn của bản thân và nhịp điệu sống đơn điệu, rời rạc của xã hội ( Đi bộ và chạy - Trần Đức Tiến). Cô đơn bởi thân phận xa xứ kiếm ăn ( Trở về- Thùy Linh). Cô đơn vì mình đang sống cuộc đời vô vị, nhạt nhẽo ( Ông gàn- Nguyễn Phan Hách)…
Với Nguyễn Ngọc Tư, cô có tài năng đặc biệt khi miêu tả nỗi cô đơn của những con người nhỏ bé trong xã hội, những con người lao động nghèo khổ, là một trong số ít tác giả trẻ miêu tả được nỗi cô đơn bằng những câu văn chân thực và chua xót. Nguyễn Ngọc Tư : “Là phụ nữ, rất dễ nuôi cô đơn để viết”, cô cũng từng tâm sự rằng trong cõi văn chương cô là người cực kỳ cô đơn nên cô rất dễ dàng để nhân vật mình sống trong nỗi cô đơn tận cùng, trong “hoang hoải, chán chường”. Cô cũng như những con người trong cánh đồng bất tận, sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa biển người mênh mông nhưng luôn có cảm giác bị bỏ rơi. Cô bảo không biết cô đơn có bao nhiêu dạng nhưng “ tôi đếm được mình có bốn dạng rồi. Đường nào về cũng cô đơn”. Chính cái cảm giác cô đơn ấy khiến nhà văn viết về nhân vật cô đơn của mình một cách chân thực, khi nhà văn thấy cô đơn thì cái cô đơn của nhân vật không phải là sự áp đặt nữa mà là sự thể hiện cô đơn của chính tác giả. Hầu hết nhân vật trong truyện của cô dù là người nông dân hay nghệ sĩ, là thanh niên hay người già, là nam hay nữ thì cũng nuôi trong mình nỗi buồn sầu cô đơn. Họ cô đơn trên hành trình tìm kiếm cái đẹp, cô đơn khi đi tìm hạnh phúc cho bản thân trong một biển người mênh mông mà nhìn đâu cũng thấy người xa lạ, khoảng cách, thậm chí thấy xa lạ với cả chính người thân trong gia đình mình. Nhờ sự nhạy cảm sẵn của tâm hồn của một người phụ nữ cùng với tố chất nghệ sĩ của mình càng làm cho Nguyễn Ngọc Tư rất dễ rung động với cái đẹp, tâm hồn nhạy bén, tinh tế giúp cô cảm rất nhanh với những gì diễn ra hàng ngày, với những tâm tư, xúc cảm của con người để từ đó phản ánh vào trong trang văn của mình.
Từ những trang văn của cô người đọc có thể nhận thấy rõ sự cô đơn của hai hình tượng nhân vật lớn đó là: cô đơn của người nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp và cô đơn của con người giữa biển người mênh mông. Sau đây chúng tôi sẽ đi làm rõ từng hình tượng ấy để thấy được bản chất cô đơn của nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
2.1 Cô đơn của người nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp
Ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng bạn đọc về hình ảnh của những người nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp có lẽ đọng lại là câu nói của Đào Hồng trong Cuối mùa nhan sắc : “ Tôi đã nguyện với Tổ cả đời đi theo nghiệp hát”…
Nguyễn Ngọc Tư cũng là một người nghệ sĩ, hơn nữa lại là một người nghệ sĩ luôn cảm thấy mình cô đơn : “ Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời…” chính vì vậy, hơn ai hết cô hiểu được nỗi cô đơn, hiểu được sự nhạy cảm và tha thiết với cái Đẹp của người nghệ sĩ. Đọc Cuối mùa nhan sắc, Bởi thương yêu hay Làm má đâu có dễ…chúng ta thấy được trong tâm hồn những người nghệ sĩ ấy là sự hết mình vì nghệ thuật. Có một nét khá đặc biệt mà có lẽ trong các nghiên cứu trước đây về nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư mà cụ thể hơn nữa là nhân vật cô đơn dường như vẫn chưa có ai nói đến đó chính là nghề ca hát của người nghệ sĩ. Tại sao Nguyễn Ngọc Tư lại không chọn hình ảnh người nghệ sĩ trong một nghiệp khác mà lại là nghiệp ca hát? Cả Đào Hồng, ông Chín Vũ, Diệu, San…tất cả họ đều là những con người đi theo nghề ca hát, là làm kép…mang tiếng hát của mình để cống hiến cho khán giả bằng những màn diễn hay nhất. Muốn hiểu được điều này chúng ta cần phải tìm hiểu hai lí do. Thứ nhất, như chúng ta đã biết, nghệ thuật diễn xướng ca hát như chèo, tuồng, cải lương…là những loại hình nghệ thuật rất phổ biến và phát triển ở vùng Nam Bộ, đây là một nét đặc trưng mà chúng ta có thể nhận thấy rõ. Trong Cuối mùa nhan sắc có một chi tiết đã cho chúng ta thấy được điều này đó là : “ Bữa cúng đình, ông ( Chín Vũ) mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi”. Rõ ràng nghệ thuật hát xướng là một món ăn không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ. Do đó, viết về ngành nghệ thuật này Nguyễn Ngọc Tư đồng thời một lần nữa thể hiện được chất Nam Bộ trong sáng tác của mình. Thứ hai, chúng ta phải chú ý đến tính chất của loại hình nghệ thuật diễn xướng này, những người nghệ sĩ họ ca hát, họ diễn những trích đoạn, những câu chuyện đã có kịch bản trước nhưng cái họ thể hiện được chính là sự nhập vai. Với tính chất của nghề nghiệp đã cho phép họ được thể hiện những cảm xúc của nhân vật một cách tự do, thoải mái. Cái tâm trạng của nhân vật nhiều khi được biểu đạt một cách chính xác đến tuyệt đối cũng chính là vì diễn viên mang cùng tâm trạng với nhân vật. Cuộc sống trong hiện tại của họ với cuộc sống nghệ thuật trong những vở diến nhiều khi lại không hề giống nhau, có lúc còn đối lập. Cuộc sống hiện thực của họ là những vất vả lo toan, là sự thiếu thốn về vật chất, là những mảnh vá trong tâm hồn…còn trên sân khấu nhiều khi họ được sắm những vai quyền cao chức trọng…Nguyễn Ngọc Tư đã đi sâu vào tâm trạng của người nghệ sĩ ca xướng, đối lập họ giữa cuộc đời trên sân khấu với cuộc đời thực của mình để làm nổi bật nỗi cô đơn, sự lạc lõng trong cuộc đời của họ.
Cái Đẹp từ bao đời nay vẫn là đích hướng tới của người