Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy 
nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng, nó có thể là một cú sốc đối 
với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá 
cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát 
hay không. Chỉ số giả cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một 
vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng.
Tuy trong năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã kịp thời có hàng loạt các 
biện pháp nhằm kiềm chế tốc độ tăng CPI các tháng còn lại nhằm làm cho 
CPI 2007 sẽ không vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,5%). Nhưng, kết 
thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI 
tháng 12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và 
Việt Nam đã không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông 
qua: “CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”.
Trong năm 2008 vừa qua tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến động 
như tình hình lạm phát lên cao vào những tháng đầu năm nhưng chúng ta lại 
phải lo lắng về nguy cơ giảm phát vào những tháng cuối năm. Cùng với sụ 
biến động của giá cả thì chỉ số giá tiêu dùng trong năm vừa qua cũng liên tục 
biến động vào tháng 5 chỉ số này tăng cao nhưng tố độ tăng lại chậm lại khi 
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 ở mức 2,14%, là mức thấp so với những 
tháng đầu năm 2008. Diễn biến chỉ số CPI tăng chậm đã mang lại nhiều hy 
vọng sáng sủa hơn của kinh tế nửa cuối năm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
28 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2558 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 1
Luận Văn 
Đề Tài: Chuyên đề kinh tế học 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 2
Mục lục 
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................3 
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................3 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............................................................4 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................4 
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG .........................................................5 
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ 
SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI) ...........................................................5 
Khái niệm ....................................................................................5 
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng và cách tính toán chỉ số 
giá tiêu dùng ở Việt Nam .............................................................5 
Các vấn đề gặp phải khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng. ................8 
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG QUA CÁC 
NĂM 2007 – 2008 ........................................................................ 10 
2.2. Chỉ số giá tiêu dùng của năm 2008 ..................................... 17 
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................... 28 
Kết luận ..................................................................................... 28 
Kiến nghị ................................................................................... 28 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 3
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy 
nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng, nó có thể là một cú sốc đối 
với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá 
cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát 
hay không. Chỉ số giả cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một 
vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng. 
 Tuy trong năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã kịp thời có hàng loạt các 
biện pháp nhằm kiềm chế tốc độ tăng CPI các tháng còn lại nhằm làm cho 
CPI 2007 sẽ không vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,5%). Nhưng, kết 
thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI 
tháng 12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và 
Việt Nam đã không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông 
qua: “CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”. 
Trong năm 2008 vừa qua tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến động 
như tình hình lạm phát lên cao vào những tháng đầu năm nhưng chúng ta lại 
phải lo lắng về nguy cơ giảm phát vào những tháng cuối năm. Cùng với sụ 
biến động của giá cả thì chỉ số giá tiêu dùng trong năm vừa qua cũng liên tục 
biến động vào tháng 5 chỉ số này tăng cao nhưng tố độ tăng lại chậm lại khi 
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 ở mức 2,14%, là mức thấp so với những 
tháng đầu năm 2008. Diễn biến chỉ số CPI tăng chậm đã mang lại nhiều hy 
vọng sáng sủa hơn của kinh tế nửa cuối năm. 
CPI dù đã tăng chậm lại trong tháng 6, có thể nói là rất đáng mừng khi các 
biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng, song nhìn nhận 
một cách công bằng, thì xu hướng chung từ rất nhiều năm nay là trong tháng 5, 
tháng 6, CPI bao giờ cũng tăng chậm điều này cho thấy CPI tăng chậm lại là có yếu 
tố khách quan chứ không phải hoàn toàn do tác động của giải pháp chủ quan. Một 
phân tích khác cho rằng, cơn sốt lương thực vào tháng này dịu đi so với tháng trước 
đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm CPI do nhóm hàng lương thực, thực 
phẩm chiếm 42,8% trong chỉ số tính giá tiêu dùng. Hơn nữa, tuyên bố của Thủ 
tướng về việc giữ ổn định giá điện, nước từ nay đến cuối năm cộng với một số 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 4
biện pháp tiếp tục tăng cung, giảm cầu cũng sẽ ảnh hưởng tích cực đến CPI 6 tháng 
cuối năm. Vậy đâu là nguyên nhân chính trong việc làm giảm tốc độ tăng của CPI 
vào những tháng cuối năm 
CPI bình quân cả năm 2008 tăng 22,97 % so với cùng kỳ năm 2007. Vậy khi 
CPI tăng lên như thế sẽ tác động đến nền kinh tế trong nước? Những thắc mắc đó 
chúng ta sẽ tìm hiểu ro hơn trong bài chuyên đề này. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
1. Mục tiêu chung 
Phân tích chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam trong 2 năm 2007 và năm 
2008 
2. Mục tiêu cụ thể 
 Xem xét cách tính CPI và phương pháp tính CPI của nước ta. 
 Tìm hiểu những nguyên nhân làm chỉ số giá tăng cao vào năm 2007 và 
tăng đột biến trong những tháng đầu năm 2008 nhưng lại chậm lại vào 
những tháng cuối năm 2008. 
 Phân tích tình hình biến động lên của CPI trong năm 2007 và 2008. 
 Đánh giá tác động của CPI đến nền kinh tế và hoạt động kinh tế trong 
nước. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Phương pháp thu thập và sử dụng số liệu thứ cấp từ các báo cáo 
kinh tế trên các báo, tạp chí như: báo công an nhân dân, báo thanh 
niên, thời báo Kinh tế Sài Gòn, internet trang số liệu của tổng cục 
thống kê, và một số nguồn khác như: Vietnamnet, google… 
2. Phương pháp phân tích số liệu: dựa vào các số liệu thứ cấp đã thu 
thập em sẽ thốgn kê lại so sánh và phân tích từ đó đưa ra các kết luận 
để làm rõ những mục tiêu đã đề ra. 
I. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu:Do kiến thức và thời gian có hạn nên trong chuyên 
đề này tôi chỉ nguyên cứu về chỉ số giá CPI của Việt Nam trong 2 năm 
2007 và 2008. 
Thời gian nghiên cứu: thu thập và phân tích số liệu CPI từ 2007-2008 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 5
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH 
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI) 
Khái niệm 
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh 
Consumer Price Index là một chỉ tiêu là chỉ số tính theo phần trăm thống kê 
phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá cả chung của một số lượng cố 
định các loại hàng hoá dịch vụ (được gọi là “rổ” hàng hoá) đã được chọn đại 
diện cho tiêu dùng, phục vụ đời sống bình thường của người dân, qua thời 
gian. 
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự 
thay đổi của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức 
giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều 
chỉnh GDP). 
Trước 1998, Việt Nam sử dụng chỉ số giá bán lẻ - RPI). Đên năm 1998 
Việt Nam bắt đầu tính toán và sử dụng CPI để phản ánh mức độ tăng giá tiêu 
dung, từ đó đến nay, số lượng và quyền số của các mặt hàng trong rổ hàng 
hóa để tính CPI được cập nhật và mở rộng 5 năm một lần, thời điểm được 
chọn làm năm gốc cũng thay đổi theo: năm gốc 1995 với 296 mặt hàng, năm 
2000 là 390 mặt hàng và năm 2005 là 494 mặt hàng. Các mặt hàng trong rổ 
hàng hóa CPI hiện được phân chia thành các nhóm, chi tiết theo các cấp: cấp 
1: 10 nhóm, cấp 2: 32 nhóm, cấp 3: 86 nhóm, cấp 4: 237 nhóm. Hiện nay số 
liệu CPI của Việt Nam được chia làm 3 giai đoạn: 1998-2000, 2001-2005, 
2006-nay. 
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng và cách tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở 
Việt Nam 
1.2.1. Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng 
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo 
công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm 
được điều đó phải tiến hành như sau: 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 6
a) Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng 
hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua. 
b) Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá 
tại mỗi thời điểm. 
c) Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng 
nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại. 
d) Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng 
bằng công thức sau: 
Thời kỳ gốc 
sẽ được thay đổi 
trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước. 
Nếu muốn tính Chỉ số lạm phát của một thời kỳ, người ta áp dụng công 
thức sau: 
Chỉ số lạm phát thời kỳ T = (CPI thời kỳ T - CPI thời kỳ T-1)/ CPI thời kỳ T-1 
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá 
tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng 
hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để 
tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng 
tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc 
một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. 
1.2.2. Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt nam 
Việc tính toán CPI ở Việt nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. CPI của 
nước ta đã và đang được tính cho cả nước, 8 vùng kinh tế và 64 tỉnh, thành 
phố trực thuộc Trung ương. 
Ở nước ta, quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng cố định trong 5 
năm và tính cho năm gốc so sánh (đồng nhất với năm cập nhật danh mục mặt 
hàng, dịch vụ đại diện). Trong thời kỳ 2006-2010 năm gốc so sánh là năm 
2005, do đó giá kỳ gốc theo danh mục mặt hàng, dịch vụ đại diện mới, quyền 
số để tính chỉ số giá tiêu dùng đều phải là số liệu của năm 2005. 
CPIt = 
100 x 
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời 
kỳ t 
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ 
cơ sở 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 7
Quyền số năm 2005 được tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra Mức sống dân 
cư năm 2004 của Tổng cục Thống kê. Ngoài ra, năm 2005 Tổng cục Thống 
kê đã tiến hành điều tra mẫu bổ sung tại 10 tỉnh, thành phố để phân chia các 
nhóm chi tiêu nhỏ hơn theo yêu cầu tính chỉ số giá tiêu dùng. 
Trước đây nước ta áp dụng tính CPI theo công thức Laspeyres tính CPI dài 
hạn (kỳ báo cáo so với kỳ gốc) do công thức đó có nhiều ưu điểm như cách 
tính dễ hiểu, ngắn gọn. Tuy nhiên nó cũng có một số nhược điểm khi giải 
quyết vấn đề như: chọn mặt hàng mới thay thế mặt hàng cũ không còn bán 
trên thị trường; hàng thời vụ hoặc hàng thay đổi chất lượng do mọi so sánh 
đều phải thông qua một kỳ gốc đã chọn (ví dụ kỳ gốc 2000, kỳ gốc 2005...). 
Để khắc phục những nhược điểm trên. Hiện nay, CPI được tính theo công 
thức Laspeyres chuyển đổi - hay phương pháp so sánh với kỳ gốc ngắn hạn. 
Công thức này hoàn toàn tương thích với công thức Laspeyres gốc. Dạng tổng 
quát như sau : 
 
  1
1
10
t
i
t
i
n
i
t
i
t
p
p
WI 
Trong đó: 
0
1
0
i
1-t
i WW
i
t
i
p
p
Trong đó: 
0tI chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc 0; 
t
ip : giá mặt hàng i kỳ báo cáo t; 
0
ip là giá mặt hàng i kỳ gốc; 
0
iW : quyền số cố định năm 2005. 
Chú ý: Điểm mới trong công thức là thay cho việc tính chỉ số cá thể mặt 
hàng kỳ báo cáo so trực tiếp với kỳ gốc bằng việc tính chỉ số cá thể mặt hàng 
kỳ báo cáo so với kỳ trước sau đó nhân với chỉ số cá thể mặt hàng đó kỳ 
trước so với năm gốc. 
1010   ttpi
t
pi
t
pi iii 
Trong đó: 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 8
0t
pii : là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với kỳ gốc 0; 
01t
pii : là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ 
gốc 0; 
1tt
pii : là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước; 
+ Tính chỉ số giá các vùng kinh tế: Tính CPI khu vực nông thôn và thành 
thị của các vùng (8 vùng) từ báo cáo CPI khu vực nông thôn và thành thị của 
các tỉnh trong vùng, sau đó tính CPI vùng chung cho cả hai khu vực (8 vùng). 
+ Tính chỉ số giá cả nước: Tính CPI khu vực nông thôn và thành thị cả 
nước, từ CPI khu vực nông thôn và thành thị của 8 vùng, sau đó tính chỉ số 
giá Chung cả nước từ chỉ số giá của hai khu vực. 
Công thức tổng quát như sau: 
 
m
1k
k
0
k
0
1
0
0
W
W*
m
k
t
k
t
V
I
I 
Trong đó: 
0
0
t
VI là chỉ số giá cả nước kỳ báo cáo so với kỳ gốc; 
0
1
t
VI là chỉ số giá vùng 1 kỳ báo cáo so với kỳ gốc; 
0
2
t
VI là chỉ số giá vùng 2 kỳ báo cáo so với kỳ gốc; 
0t
kI là chỉ số kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc; 
 k là tỉnh tham gia tính chỉ số, m là số tỉnh tham gia tính chỉ số giá; 
k
0W là quyền số cố định của tỉnh k. 
Lưu ý: Cấp tỉnh, thành phố tính CPI từ giá bình quân hàng tháng. Cấp 
vùng và cả nước tính CPI từ chỉ số giá của các địa phương, không tính trực 
tiếp từ giá bình quân vùng hoặc cả nước. 
Các vấn đề gặp phải khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng. 
Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính 
dẫn đến hạn chế của CPI sau đây: 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 9
 CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá 
cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng 
khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở 
nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này 
làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá. 
 CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó 
sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một 
đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. CPI không phản 
ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức 
giá cao hơn thực tế. 
 Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức 
giá của một hàng hoá cụ nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng 
thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá 
dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng 
đại mức giá. 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 10
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG QUA CÁC 
NĂM 2007 – 2008 
2.1. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 
2.1.1. Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007 
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007 so với các kì gốc, với cùng kì 
năm gốc và với tháng trước đó (đvt: %): 
Bảng 1: So sánh tỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng đầu năm 2007(đvt:%) 
(nguồn: niên giám thống kê) 
a) Nhận xét: 
 Giá tiêu dùng tháng 01/2007 tăng cao hơn mức tăng của các tháng 
trước.CPI của tháng 1 so với tháng trước tăng 1,1%, So với tháng 01/2006 
giá tiêu dùng tháng này tăng 6,5%. Sự tăng lên của CPI trong tháng này phù 
hợp với tập quán tăng tiêu dùng vào tháng Chạp của năm âm lịch, do đó tăng 
đột biến ở các nhóm hàng phục vụ đón Tết như hàng lương thực, thực phẩm; 
đồ uống và thuốc lá; đồ dùng cá nhân và vật liệu xây dựng phục vụ việc hoàn 
thiện các công trình xây dựng dân dụng. 
 Trong tháng 2 CPI tăng so với tháng trước. Nhìn chung xu hướng tăng giá 
của 2 tháng đầu năm không có biến động bất thường so với xu hướng tăng giá 
của 2 tháng đầu các năm 2005 và 2006. So với tháng 01/2007 tăng 2,2%, 
nhóm hàng có tốc độ tăng cao nhất là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,5% 
(trong đó: lương thực tăng 2,8% và thực phẩm tăng 3,8%); thứ đến là đồ uống 
và thuốc lá tăng 2,5; riêng phương tiện đi lại, bưu điện chỉ tăng 0,1%, trong 
đó phân nhóm bưu chính viễn thông giá ở mức gần như không thay đổi so với 
Tháng 
x/2007 
Kì gốc 
2005 
Tháng 
x/2006 
Tháng 
trước 
Tháng 
12/006 
1 109.31 106.45 101.05 101.05 
2 111,7 106,5 102,2 103,2 
3 111,4 106,8 99,8 103,0 
4 112,0 107,2 100,5 103,5 
5 112.8 107.3 100.8 104.3 
6 113,8 107,8 100,9 105,2 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 11
giá tháng trước. So với cuối năm 2006, giá tiêu dùng tháng 02/2007 tăng 
3,2%. Tăng hơn so với kì gốc là 11,7%. 
 Tuy nhiên, giá tiêu dùng tháng 3/2007 lại giảm 0,2% so với tháng 2 trước 
đó. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng, giá lương thực, thực phẩm 
tháng 3/2007 giảm 0,4% so với tháng trước và giá phân nhóm bưu chính, viễn 
thông tiếp tục giảm. Dù trong tháng 3/2007 CPI giảm hơn so với các tháng 
đầu năm nhưng so với tháng 12 năm trước, giá tiêu dùng tháng 3/2007 tăng 
3% và tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa. 
 Tình hình giảm giá tiêu dùng trong tháng thay đổi khi giá tiêu dùng tháng 
4/2007 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. 
So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4/2007 của hầu hết các nhóm hàng 
hóa và dịch vụ tiêu dùng đều tăng, nhưng với các mức độ khác nhau. So với 
tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 4/2007 tăng 3,5% và tăng ở tất cả các 
nhóm hàng hóa. 
 Giá tiêu dùng tháng 5/2007 lại tiếp tục tăng 0,77% so với tháng trước, tăng 
4,32% so với tháng 12/2006 và tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước. So với 
tháng trước, giá tiêu dùng tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa và dịch vụ, trong 
đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,04% (lương thực tăng 0,62%; thực 
phẩm tăng 0,95% và ăn uống ngoài gia đình tăng gần 2%, là tác nhân chính 
của tăng giá nhóm này cũng như tăng giá chung so với tháng trước). So với 
tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 5/2007 cũng tăng ở tất cả các nhóm nhưng 
với mức độ khác nhau So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 5 của 
các nhóm có mức tăng cao có xu hướng tương tự như so với tháng 12/2006. 
 Giá tiêu dùng tháng 6/2007 tăng 0,9% so với tháng trước, tăng 5,2% so 
với tháng 12/2006 và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá tiêu dùng tăng 
do giá của tất cả các nhóm hàng hóa đều tăng với các mức độ khác nhau. 
 Nhìn chung thì chỉ số giá trong 6 tháng đầu năm 2007 tăng nhẹ và 
kết thúc 6 tháng đầu năm 2007 thì giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007 này so 
với 6 tháng đầu năm trước, giá tiêu dùng bình quân tăng 7%, thấp hơn mức 
tăng bình quân 8,6% trong 6 tháng đầu năm 2005 và 7,9% trong 6 tháng đầu 
2006 và thấp hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. 
Chuyên đề kinh tế học Phân tích CPI năm 2007 & năm 2008 
SVTH: Đặng Nguyễn Thiên Hoàng GVHD: Nguyễn Hồng Diễm 12
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 6 tháng đầu năm này tuy tăng nhẹ nhưng xu 
hướng tăng lại mạnh: Mặc dù tốc độ tăng bình quân CPI 6 tháng đầu năm 
2007 ở mức thấp hơn cùng kỳ các năm 2005 và năm 2006, nhưng các năm 
trước, CPI có xu hướng giảm từ mức 9,7% (năm 2005) và 8,8% (năm 2006) 
của tháng 1 xuống còn 7,5% của tháng 6 , còn 6 tháng đầu năm 2007 có xu 
hướng tăng từ mức 6,45% tháng 1/2007 lên 7,8% vào tháng 6/2007. Từ đó 
gây ra những lo ngại tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. 
Nguyên nhân khởi xướng của sự gia tăng này bắt đầu là từ cú sốc về 
năng lượng và một số vật liệu nhập khẩu tăng do giá thế giới tăng mạnh. Tiếp 
đến là sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm do giá lương thực thế giới tăng, 
cùng với dịch cúm gia cầm bùng phát, thêm vào đó là một số nguyên nhân do 
đầu cơ tăng giá và yếu tố kỳ vọng. Lạm phát trong suốt 3 năm 6 tháng qua 
cho thấy, sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm và nhóm nhà ở, điện nước, 
chất đốt và vật liệu xây dựng có đóng góp lớn vào biến động của CPI, nhất là 
giá thực phẩm, vì các nhóm này có quyền số lớn trong rổ CPI (quyền số của 
lương thực là 9,86%, của thực phẩm là 25,2%). Ngoài ra, các nhóm hàng khác 
cũng đều tăng cao trên dưới 10% (ngoại trừ giá bưu chính - viễn thông là 
giảm). 
 Từ sự tăng giá của các nhóm hàng trong rổ hàng hoá tính CPI cho thấy, 
CPI của Việt Nam tại sao lại tăng ở mức cao trong thời gian tương đối dài, 
nhất là diễn biến 6 tháng đầu năm 2007 
b) Nguyên nhân về sự tăng CPI trong 6 tháng đầu năm là: 
CPI của Việt Nam tăng cao hơn các nước trong khu vực là do tăng 
trưởng kinh tế của Việt Nam đã vượt sản lượng tiềm năng, năng suất lao động 
thấp hơn các