Lạm phát ở Việt Nam đang nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế. Sau hơn một thập kỷ lạm phát ở mức vừa phải, hiện nay lạm phát ở nước ta đang ở mức cao, đặc biệt là năm 2007 và 2008 và nó đã và đang là “kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt đông kinh tế. Nó như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển đất nước.
Vì vây, chúng em chọn đề tài “ Lạm Phát ở Việt Nam: Thực Trạng Và Giải Pháp” để có thể nghiên cứu kỹ hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó chúng em có thể rút ra các biện pháp khắc phục nhằm giảm lạm phát trong thời kỳ kinh tế mở và phát triển một cách đồng bộ ở Việt Nam.
47 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4003 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH MỞ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH- NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: “LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
Khoa: Tài Chính- Ngân Hàng
Lớp: TN9D
SVTH: Nhóm TN9A
GVHD: TS Nguyễn Trung Trực
Năm Học: 2010- 2011
Tp. HCM, ngày 25/11/2010
DANH SÁCH NHÓM
TÊN MSSV
Nhận xét của GVHD
LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát ở Việt Nam đang nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế. Sau hơn một thập kỷ lạm phát ở mức vừa phải, hiện nay lạm phát ở nước ta đang ở mức cao, đặc biệt là năm 2007 và 2008 và nó đã và đang là “kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt đông kinh tế. Nó như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển đất nước.
Vì vây, chúng em chọn đề tài “ Lạm Phát ở Việt Nam: Thực Trạng Và Giải Pháp” để có thể nghiên cứu kỹ hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó chúng em có thể rút ra các biện pháp khắc phục nhằm giảm lạm phát trong thời kỳ kinh tế mở và phát triển một cách đồng bộ ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, chúng em kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Cơ sở lý luận
Khái niệm về lạm phát 6
Phân loại lạm phát 6
Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng 6
Căn cứ vào định tính 7
Thiểu phát 7
Đo lường lạm phát 8
Chỉ số giá tiêu dùng 8
Chỉ số giảm phát theo GDP (Id) 9
Chỉ số giá sản xuất 10
Chỉ số giá sinh hoạt 10
Chỉ số giá bán buôn 10
Các nguyên nhân gây ra lạm phát 10
Lạm phát do cầu kéo 10
Lạm phát do chi phí đẩy 11
Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ 13
Tác động của lạm phát 13
Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát việt nam qua các giai đoạn 15
Giai đoạn đất nước việt nam đang bị thực dân và đế quốc đô hộ 15
Giai đoạn từ năm 1976- 1980 15
Giai đoạn từ 1981- 1988 16
Giai đoạn 1988-1995 17
Giai đoạn 1995-2005 17
Giai đoạn 2006 đến nay 21
Giai đoạn lạm phát tăng nhanh 21
Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm 2008) 24
Lạm phát năm 2009 24
Năm 2010 25
Tác động của lạm phát đến các biến số vĩ mô 26
Tăng trưởng kinh tế 26
Tỉ lệ thất nghiệp 29
Các chính sách của nhà nước trong giai đoạn hiện nay 31
Năm 2007 31
Năm 2008 33
Năm 2009 40
Giải pháp kiềm chế lạm phát
Những biện pháp cấp bách 43
Biện pháp về chính sách tài khóa 43
Biện pháp thắt chặt tiền tệ 43
Biện pháp kiềm chế giá cả 44
Biện pháp đóng băng lương và giá để kiềm chế giá 44
Biện pháp cải cách tiền tệ 44
Những biện pháp chiến lược 44
Xây dựng và thực hiên chiến lược phát triển kinh tế phù hợp 44
Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn toàn 45
Dùng lạm phát để chống lạm phát 45
Tài liệu tham khảo 46
Cơ sở lý luận
Khái niệm về lạm phát
Ban đầu chưa có một định nghĩa thống nhất về lạm phát, vì vậy đã có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế học như:
Theo Karl-Marx : “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết.”
V.LLenine: “Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong lưu thông.”
Miltan Friedman: “Lạm phát bao giờ ở đâu bao giờ cũng là một hiện tượng cửa tiền tệ.”
R.Dornbusch và Fisher: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên.”
Các khái niệm trên đều dựa trên đặc trưng :
Lượng tiền lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá.
Mức giá cả chung tăng lên.
Vậy lạm phát: “Là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền giấy. Là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt”.
Phân loại lạm phát
Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng
Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở dưới mức một con số hằng năm (dưới 10% một năm). Hiện ở phần lớn các nước TBCN phát triển đang có lạm phát vừa phải.
Lạm phát phi mã: Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20%, 100% hoặc 200%... một năm.
Siêu lạm phát: Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần ở mức 3 con số hằng năm trở lên.
Ví dụ: Lạm phát ở Zimbabwe
Zimbabwe Inflation rate
Year
Inflation rate
2003
400%
2004
450%
2005
700%
2006
900%
2007
7892%
2008
200000%
Căn cứ vào định tính
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
Lạm phát bất thường: Xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .
Thiểu phát
Thiểu phát: Trong kinh tế học là lạm phát ở tỉ lệ rất thấp, đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở việt nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát (sự suy giảm liên tục của mức giá chung của các hàng hóa và dịch vụ hay sự gia tăng sức mua trong nước của đồng nội tệ). Không có tiêu chí chính xác tỉ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỉ lệ lạm phát ở mức 3- 4 phần trăm một năm trở xuống được coi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản thì tỉ lệ lạm phát 3- 4 phần trăm một năm được coi là trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002- 2003, tỉ lệ lạm phát ở mức 3- 4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Đo lường lạm phát
Tỷ lệ lạm phát: được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung.
Trong đó:
pt : tỷ lệ lạm phát thời kỳ t
Pt: mức giá của thời kỳ t
Pt-1: mức giá của thời kì trước đó
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất tỉ lệ lạm phát, vì giá trị của nó biểu hiện qua các chỉ số phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI-Consumer Price Index ): là chỉ số đo lường thông dụng nhất, cơ bản nhất, đo giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường".
Chú ý: Trong khi tính toán thì phải chọn 1 số nhóm hàng tiêu dùng mang tính chất đại diện từ đó khảo sát biến động giá.
Trong đó:
CPIt: Chỉ số giá tiêu dùng của năm t
Pit và Pi0 là mức giá của sản phẩm i trong năm t và năm 0
Qi0 là sản lượng sản phẩm i trong năm 0
Năm 0 là năm gốc
Ví dụ:
Ngân sách cho:
60% thực phẩm;
20% cho y tế;
20% cho giáo dục
Giá thực phẩm tăng 8%,
Y tế tăng 7%,
Giáo dục tăng 5%
CPI năm: (108×0,6) + (107×0,2) + (105×0,2) = 107
(tỉ lệ lạm phát là 7%)
Chỉ số giảm phát theo GDP (Id): phản ánh sự thay đổi của mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở năm hiện hành (năm t) so với năm gốc.
Id của năm t được tính theo công thức:
Trong đó:
GDPdn: GDP danh nghĩa năm t
GDPt: GDP thực năm t
Qit: khối lượng sản phẩm i được sản xuất ở năm t
Pit: đơn giá sản phẩm loại i ở năm t
Pio: đơn giá sản phẩm i ở năm gốc
So sánh CPI và Id ta thấy có 3 điểm khác nhau:
Thứ nhất, Id phản ánh mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế; còn CPI phản ánh giá của những hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mua.
Thứ hai, Id phản ánh giá của những hàng hóa sản xuất trong nước, do đó khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên, chỉ phản ánh trong CPI, không được tính trong Id.
Thứ ba, CPI được tính bằng cách sử dụng giỏ hàng hóa cố định, trong khi Id được tính bằng cách sử dụng giỏ hàng hóa thay đổi theo thời gian.
Cả hai đều có nhược điểm là CPI có xu hướng đánh giá quá cao sự tăng giá sinh hoạt trong khi Id lại có xu hướng đánh giá quá thấp sự tăng giá sinh hoạt.
Chỉ số giá sản xuất (PPI- Production Price Index): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán.
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI- Cost of Living Index): là sự tăng trên lý thuyết trong giá cả sinh hoạt của một cá nhân, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ.
Chỉ số giá bán buôn (WPI - Wholesale Price Index) : đo sự thay đổi trong giá cả của một sự lựa chọn các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế). Chỉ số này rất giống với PPI.
Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát do cầu kéo (Demand-Pull Inflation)
Diễn ra do tổng cầu AD tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một quốc gia, sẽ gây ra sự tăng giá cả và lạm phát xảy ra.
Hình 1
Sản lượng tăng tới Y1
Giá tăng từ PO tới P1 (từ PO đến P1 là lạm phát- Hình 1)
Lạm phát được coi là do sự tồn tại của mức cầu quá cao.
AD tăng có thể do:
Khu vực tư nhân lạc quan về nền kinh tế, nên tiêu dùng tự định và đầu tư tự định tăng lên.
Chính phủ tăng chi tiêu.
Ngân hàng trung ương tăng lượng cung tiền.
Người nước tăng mua hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Kết quả đường tổng cầu AD sẽ dịch chuyển sang phải, trong ngắn hạn sẽ làm cho sản lượng tăng lên, đồng thời mức giá chung tăng lên.
Lạm phát do chi phí đẩy (Cost- Pull Inflation)
Xuất phát từ sự sụt giảm trong tổng cung, mà nguyên nhân là do chi phí sản xuất của nền kinh tế tăng lên.
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái từ ASO sang AS1. Kết quả sản lượng sụt giảm từ YO xuống Y1, mức giá sẽ tăng từ PO lên P1, nền kinh tế vừa suy thoái vừa lạm phát (Hình 2).
Hình 2
Các nhân tố làm tăng chi phí:
Chi phí tiền lương : Tiền lương gia tăng do áp lực từ công đoàn, từ chính sách điều chỉnh lương của chính phủ làm tiền lương tăng lên vượt mức tăng năng suất lao động là nguyên nhân đẩy chi phí tăng.
Lợi nhuận : Nếu doanh nghiệp có quyền lưc thị trường (độc quyền, nhóm độc quyền) có thể đẩy giá tăng lên để kiếm lợi nhuận cao hơn .
Nhập khẩu lạm phát :Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải nhập một lượng không nhỏ nguyên nhiên liệu (NVL) từ nước ngoài nếu chi phí NVL tăng do nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiểm soát trong nước khi đó doanh nghiệp phải chấp nhân mua NVL với giá cao.
Chi phi NVL tăng cao có thể do các nguyên nhân sau:
Tỉ giá hối đoái: Nếu đồng nội tệ bị mất giá thì hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn so với ở nước ngoài. Khi đó, xuất khẩu sẽ có lợi hơn nhập khẩu vì thế làm chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu tăng cao.
Thay đổi giá cả hàng hóa: Khi giá cả hàng hóa thế giới tăng thì các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với chi phí cao hơn nếu sử dụng hàng hóa này làm NVL để sản xuất kinh doanh .
Những cú sốc từ bên ngoài: Các cuộc khủng hoảng về nguyên liệu, vật liệu chính như dầu mỏ, sắt thép ,than đá,…làm chi phí sản xuất tăng.
Sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cũng đẩy giá cả tăng khi bị khai thác cạn kiệt.
Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ (Monetary- Theory Inflation)
Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình sau:
M*V=P*Y
Trong đó:
M: lượng cung tiền danh nghĩa
V: tốc độ lưu thông tiền tệ
P: chỉ số giá
Y: sản lượng thực
Với giả thiết V và Y không đổi nên chỉ số giá phụ thuộc vào lượng cung tiền danh nghĩa, khi cung tiền tăng thì mức giá cũng tăng theo cùng tỉ lệ, lạm phát xảy ra.
Thuyết này chỉ đúng khi V và Y không đổi.
Tác động của lạm phát.
Lạm phát có sự ảnh hưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội tùy theo mức độ của nó.
Tác động tích cực : Khi lạm phát ở mức độ vừa phải có tác dụng thúc đẩy kinh tế. Lạm phát ở mức này thường được chính phủ duy trì như một chất xúc tác cho nền kinh tế.
Tác động tiêu cưc :
Phân phối lại thu nhập và của cải: Khi lạm phát xảy ra những người có tài sản ,vay nợ là có lợi vì giá của tài sản nói chung tăng lên còn giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Ngược lại những người làm công ăn lương, cho vay, gửi tiền bị thiệt hại.
Tác động đến kinh tế và việc làm: Lạm phát ở mức cao làm nền kinh tế bị bất ổn, hàng hóa chở nên đắt đỏ dãn đến tình trạng đầu cơ tích trữ tăng tỉ giá hối đoái, hoạt động tín dụng rơi vào khủng hoảng nguồn tiền gửi sụt giảm nhanh chóng.
Ngoài ra lạm phát còn tác động đến tỉ lệ thất nghiệp: khi lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại.
Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát Việt Nam qua các giai đoạn.
Giai đoạn đất nước việt nam đang bị thực dân và đế quốc đô hộ.
Thời kì 1938- 1945: Ngân hàng đông dương cấu kết với chính quyền thực dân pháp đã lạm phát đồng tiền đông dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán đông dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải gánh chịu giá sinh hoạt từ 1939- 1945 bình quân 25 lần.
Thời kì 1946- 1954: chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng đông dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước.
Thời kì 1955- 1965: chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền nam để bù dắp lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào Việt Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí.
Thời kì 1965- 1975: ở miền bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tai miền bắc, giải phõng miền nam thống nhất đất nước đã phát hành số tiền (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miên bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng quân xâm lược Mỹ và tay sai ở cả hai miền, nhưng nhờ có sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời kì này.
Giai đoạn từ năm 1976-1980
Là giai đoạn được coi là không có lạm phát theo quan niệm kinh tế chính trị phổ biến trong các nước XHCN đương thời và không được phản ánh trong các thống kê chính thức.Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam khi đó vẫn có lạm phát, thể hiện ở sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ và sự giảm sút của chúng, đồng thời được ghi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trên dưới 20% trên một năm và đó là lạm phát của nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi các chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực. Vào thời kỳ này khu vực kinh tế Nhà Nước chiếm khoảng 85 - 87% vốn cố định, 95% lao động lành nghề mà chỉ tạo ra 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội. Trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , xong lại sản xuất ra tới 32 – 43% tổng sản phẩm xã hội và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất so với khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Mặt khác lạm phát ở Việt Nam diễn ra trong suốt nền kinh tế đóng cửa phụ thuộc nhiều vào nguồn viện trợ bên ngoài.Trên thực tế, trước năm 1988 không có đầu tư trực tiếp của nước ngoàI vào Việt Nam. Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt, phiền phức. Cơ cấu chủ yếu có tính hướng nội, khép kín, thay thế hàng nhập khẩu và không khuyết khích xuất khẩu. Cùng với chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập, nên cơ cấu kinh tế Việt Nam bị mất cân đối và không hợp lý nghiêm trọng giữa công nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng, giữa sản xuất – dịch vụ. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách chiền miên, tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ …và do đó gây ra lạm phát .
Giai đoạn 1981- 1988
Thời kỳ từ năm 1981 đến năm 1988: là thời kỳ lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang dạng “mở”. Thực tế cho thấy rằng từ năm 1981 đến năm 1988 chỉ số tăng giá đều trên 100% một năm. Vào năm 1983 và 1984 đã giảm xuống, nhưng năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất là 557% sau đó có giảm. Như vậy, mức lạm phát cao và không ổn định. Song vấn đề lạm phát chưa được thừa nhận trong các văn kiện chính thức. Vấn đề này chỉ được quy vào sử lý các khía cạnh “giá - lương- tiền”, mà lại chủ yếu bằng các giải pháp hành chính, như xem xét và đIều chỉnh đơn giản giá cả trong khu vực thị trường có tổ chức những năm 1981,1983,1987, và “bù vào giá lương” năm 1985…Đây là thời kì xuất hiện siêu lạm phát với 3 chữ số kéo dài suốt 3 năm 1986-1988, và đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử kinh tế hiện đại nước ta suốt nửa thế kỉ nay.
Giai đoạn 1988-1995
Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7– 8%.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %)
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tăng trưởng
5.1
8.0
5.1
6.0
8.6
8.1
8.8
9.5
Lạm phát
410.9
34.8
67.2
67.4
17.2
5.2
14.4
12.7
Giai đoạn 1995-2005
Số liệu của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 1996 đến năm 2005, nhìn trên đồ thị giống như như đường cong có đáy là năm 2000 và 2 đỉnh lần lượt là 1996 và 2005.
Hình 3: Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Trong giai đọan 1996 đến 2005, giá tiêu dùng chung đã tăng 51%. Như vậy, sau 10 năm giá tiêu dùng tăng 51% thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình; theo số liệu Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân đầu người năm 2004 (484,4 nghìn đồng) tăng 64,2% so với năm 1999 (295,0 nghìn đồng). Điều đó chứng tỏ đời sống của người dân được cải thiện.
Bảng 2: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 1995 đến 2005
( Ng