Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau con người thường phải sử dụng những khái niệm nhất định như “cái bàn”, “cái ghế”, “con người” Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có các khái niệm rộng hay hẹp khác nhau. Trong đó, phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Các phạm trù là kết quả quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc lập với ý thức của con người mà còn luôn vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau. Phép biện chứng duy vật đã khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất vào sáu cặp phạm trù cơ bản.
13 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Làm rõ cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả qua một số tình huống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau con người thường phải sử dụng những khái niệm nhất định như “cái bàn”, “cái ghế”, “con người”… Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có các khái niệm rộng hay hẹp khác nhau. Trong đó, phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Các phạm trù là kết quả quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới khách quan không chỉ tồn tại độc lập với ý thức của con người mà còn luôn vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau. Phép biện chứng duy vật đã khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất vào sáu cặp phạm trù cơ bản. Sau đây, chúng tôi xin làm rõ cặp phạm trù nguyên nhân kết quả qua một số tình huống thực tiễn.
B. NỘI DUNG CHI TIẾT:
I, LÝ THUYẾT CHUNG:
1.Cặp phạm trù nguyên nhân kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Ví dụ: Đô thị hóa dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Trong đó, chất thải công nghiệp độc hại là nguyên nhân còn ô nhiễm môi trường là kết quả.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan, tính khách quan này quy định mối quan hệ nhân quả dựa trên lập trường duy vật.
Do tính phổ biến của mối liên hệ nhân quả nên một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân tạo ra. Ta có thể lấy ví dụ trên thực tế như: nguyên nhân làm bầu ôzôn bị thủng ảnh hưởng đến sức khỏe và sự tồn tại của loài người. Nhưng kết quả của sự ô nhiễm môi trường cũng do nhiều nguyên nhân gây nên: đó là do con người, do công nghiệp, chất độc hại,…và chính những nguyên nhân này lại gây nên nhiều kết quả khác… Nhiều nguyên nhân nhưng chỉ gây ra một kết quả. Do vậy muốn có được một kết quả tốt thì phải biết phát hiện các nguyên nhân, phải biết hạn chế những tác động của nguyên nhân ngược chiều, tạo điều kiện cho nguyên nhân cùng chiều; phải chú trọng đến nguyên nhân chủ yếu , nguyên nhân bên trong. Chẳng hạn: trong quá trình bảo vệ môi trường như hiện nay, nếu mọi người cùng có ý thức bảo vệ thì hiệu quả sẽ tăng lên gấp bội. Nhưng thực tế có không ít nguyên nhân tác động ngược chiều làm hạn chế hoặc triệt tiêu kết quả dự định. Có thể thấy điều này thông qua quá trình thực hiện dự án bảo vệ môi trường: một số cán bộ được giao nhiệm vụ thực hiện dự án nhưng họ đã lợi dụng tham nhũng của công…
Khi xác định một mối liên hệ nhân quả cụ thể trong một thời gian nào đó nguyên nhân có trước kết quả vì chỉ có tác động lẫn nhau mới gây ra sự biến đổi. Nhưng khi xét cả quá trình mối liên hệ nhân quả thì ta thấy có thể chuyển đổi vị trí cho nhau một cách biện chứng.
Ví dụ: Bảo vệ môi trường tốt và mọi người có ý thức giữ gìn môi trường tốt thì kết quả là môi trường trong sạch và là nguyên nhân của sự phát triển kinh tế đất nước bền vững, sức khỏe của mọi người được bảo vệ tốt hơn, đời sống của nhân dân được cải thiện.
Nói tóm lại, chúng luôn có mối liên hệ phổ biến với nhau tác động qua lại, quy định sự thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau của sự vật hiện tượng, quá trình.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ có tính khách quan và tính phổ biến mà quy luật con người có thể nhận thức, vận dụng nó để đạt được mục đích của mình, tạo điều kiện cho nguyên nhân đi đến kết quả và ngược lại, đồng thời hạn chế hoặc triệt tiêu những nguyên nhân, những điều kiện sinh ra hiện tượng xấu.
Cải tạo sự vật hay xóa bỏ sự vật chính là cải tạo hay xóa bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vị trí rất khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại, xác định vai trò, vị trí của từng loại nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.
Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện tượng đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.
II, TÌNH HUỐNG.
Thực trạng môi trường:
Ngày 13 tháng 9 năm 2008, sau hơn ba tháng mật phục, các cơ quan chức năng mới bắt được hành vi xả nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải của Công ty Vedan Việt Nam.
Công ty Vedan được xây dựng trên diện tích hơn 120ha với nhiều hạng mục gồm: nhà máy Xút- clo, nhà máy bột ngọt, nhà máy tinh bột biến đổi, nhà máy Lysine, ba hệ thống xử lý rác thải, hồ chứa nước cho sản xuất…. Hoạt động thải chất thải của Vêdan đã diễn ra trong suốt 14 năm từ năm 1994 nhưng phải đến năm 2008 hành động này của Vedan mới bị lực lượng cảnh sát bảo vệ môi trường phát hiện.
Trong suốt 14 năm, Vêdan đã thải một lượng khổng lồ chất độc hại ra sông Thị Vải. Trung bình mỗi ngày sông Thị Vải phải tiếp nhận khoảng 5000 m3 chất thải độc hại từ các nhà máy của Vêdan. Lượng chất thải mà Vêdan thải ra cao hơn ít nhất 10 lần so với cho phép. Chính lượng chất thải từ công ty Vêdan là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự ô nhiễm cho dòng sông Thị Vải. Việc trốn chính quyền và cơ quan chức năng để thải chất thải đã giúp Vedan tiết kiệm hàng chục tỉ đồng mà nếu xử lí nước thải từ các nhà máy Vêdan sẽ phải chi ra để thực hiện.
Trước hết ta đi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước trên sông Thị Vải.
14 năm qua, Vedan đã thành công khi qua mắt được các cơ quan chức năng để thực hiện hành động của mình mà không hề bị phát hiện? Đã từng rất nhiều lần người dân khu vực Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh lên tiếng phản ánh với các cơ quan chức năng nhưng mãi không thấy giải quyết. Vậy đâu là nguyên nhân? Sự lơ là của cơ quan chức năng hay “ không thể bắt tận tay” trong 14 năm? Chính thái độ lơ là trong quản lý cũng như thiếu chặt chẽ trong điều tra đã gián tiếp gây ra “cái chết” cho sông Thị Vải.
Từ trên ta thấy, sự ô nhiễm của sông Thị Vải là do nhiều nguyên nhân khác nhau với mức độ tác động khác nhau. Dù trực tiếp hay gián tiếp thì sông Thị Vải cũng phải rất lâu mới có thể được làm sạch.
Sự ô nhiễm trên sông Thị Vải là kết quả của hành động thải chất thải độc hại chưa qua xử lý của công ty Vedan cũng như thái độ lơ là của các cơ quan chức năng. Nhưng cũng chính sự ô nhiễm này lại gây ra hàng loạt những hậu quả khác.
Lượng chất thải độc hại trong dòng sông Thị Vải khiến cho môi trường sống ở đây trở thành môi trường chết với tất cả các loài sinh vật sống dưới nước. Theo người dân sống nhờ nuôi trồng tôm cá ven sông thì “nuôi tôm tôm chết, thả cá cá nổi”, khiến kinh tế của người dân trở nên khó khăn.
Lượng chất độc hại quá lớn thải ra không chỉ làm nước sông ô nhiễm mà còn ngấm vào nguồn nước ngầm làm nguồn nước ngầm cũng bị nhiễm độc trầm trọng.
Không chỉ ảnh hưởng đến người dân quanh lưu vực sông Thị Vải, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải lên tiếng. Hoạt động của các doanh nghiệp này bị đình trệ. đặt hàng tại nước ngoài nhưng tàu chở hàng của nước ngoài không chịu đi vào Thị Vải vì sợ tàu bị ăn mòn….. Đặc biệt là đơn của công ty Cầu cảng Đồng Nai, theo đó thì do tình trạng ô nhiễm của dòng sông Thị Vải, các cầu cảng và tài sản do công ty xây dựng bị hao mòn rất nhanh do ô nhiễm xâm nhập vào bêtông, sắt thép làm giảm tuổi thọ cầu cảng khiến công ty thương xuyên phải sửa chữa gây nhiều tốn kém. Đồng thời mùi hôi thối từ dòng nước ô nhiễm gây khó chịu cho người lao động, không những thế còn khiến lượng lớn công nhân nhân viên bị viêm xoang, viêm mũi sức khoẻ giảm sút dẫn đến tình trạng đau ốm liên tục.
Có thể thấy, chỉ với 1 nguyên nhân là ô nhiễm môi trường sông Thị Vải đã dẫn đến rất nhiều hậu quả khác nhau.
Sự ô nhiễm trên sông Thị Vải nói riêng và tình trạng ô nhiễm môi trường nói chung đang là vấn đề nhức nhối cần được cả cộng đồng quan tâm đúng mức. Các cơ quan chức năng đã đưa ra nhiều biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn và phục hồi. Tuy nhiên, các biện pháp này có phần thiếu hiệu quả. Chúng tôi xin đưa ra một vài ý kiến:
- Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của mọi người.
- Bổ sung chính sách thu thuế, quỹ môi trường, chính sách áp dụng công nghệ sạch hơn, ít chất thải, công nghệ xử lý chất thải.
- Tăng cường biện pháp cưỡng chế tài chính đối với hành vi không tuân thủ bảo vệ môi trường.
Tóm lại, nguyên nhân sâu xa của tình trạng ô nhiễm môi trường là do ý thức của con người. Vì vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải có cái nhìn toàn diện và cụ thể để đưa ra những biện pháp thiết thực để bảo vệ môi trường.
Quan niệm sống của giới trẻ hiện nay… “Sống thử”:
Nữ sinh viên T.T.A quê ở Thái Bình, sau khi đỗ đại học Đông Đô đã ra Hà Nội bắt đầu cuộc sống sinh viên. Những năm đầu trôi qua tốt đẹp. Đến năm thứ 3, A gặp phải những khó khăn về cả vật chất và tinh thần. Khi đó A đã gặp và yêu T, T học cùng trường và hơn A 2 tuổi, yêu nhau được 2 tháng T đã rủ A sống thử. Đúng 3 tháng sau 2 người đã chia tay vì lý do không hợp nhau. Sau khi tốt nghiệp, A đã kết hôn cùng N là người cùng quê. Cưới nhau được 8 tháng nhưng vẫn chưa có con. A đi khám và biết mình bị vô sinh do đã uống thuốc tráng thai quá liều (trong thời sinh viên). Cuộc sống gia đình A hoàn toàn sụp đổ.
Trong tình huống trên, 1 chuỗi sự kiện được nêu ra: Do hoàn cảnh đưa đẩy, A đã sống thử dẫn đến sau này bị vô sinh và gia đình đổ vỡ. Các sự kiện nối tiếp nhau về mặt thời gian và có mối quan hệ nhân - quả với nhau. Sự kiện sau chính là kết quả của sự kiện trước và sự kiện trước chính là nguyên nhân dẫn đến sự kiện sau, cụ thể:
Sự kiện A sống thử là do nguyên nhân: xuất phát từ bản thân 2 người về tâm lý tò mò, tư tưởng phóng túng, ham muốn bản thân nên đã đẩy A vào lối sống thử.
Bên cạnh đó có thể nói hoàn cảnh bên ngoài cũng là những điều kiện dẫn đến hậu quả trên, chẳng hạn như A sống xa gia đình, thiếu đi sự quản lý, quan tâm, chăm sóc của bố mẹ; hoàn cảnh gia đình A tương đối khó khăn không đủ khả năng chu cấp tiền ăn học đầy đủ cho A gây nên những thiếu thốn về vật chất. Trong hoàn cảnh đó, A lại bắt gặp trào lưu sống thử của sinh viên mà chính bạn bè A cũng đang “ thử” … Với những điều kiện ngoại cảnh đó tác động như thế, A đã sa vào lối sổng thử.
Để biện hộ cho hành vi đó, A lấy cớ là vì A đang thiếu thốn về tình cảm lẫn vật chất. Khi yêu T, T chính là chỗ dựa duy nhất của A về mặt tinh thần, mặt khác T cũng lo cho A được một phần kinh phí học hành và chỗ ăn, chỗ ở.
Hậu quả của những nguyên nhân nêu trên đó là A đã quyết định sống thử với T. Với tình huống này ta thấy mối quan hệ sản sinh thể hiện rất rõ ở chỗ một sự kiện vừa có thể là nguyên nhân, vừa có thể là kết quả: sống thử - hậu quả của những suy nghĩ phóng túng, lập trường không vững vàng; sống thử - nguyên nhân của việc A bị vô sinh, cuộc sống gia đình không hạnh phúc.
Mở rộng hơn, việc A bị vô sinh, cuộc sống gia đình không hạnh phúc cũng có thể là nguyên nhân của những hậu quả khác như A bị xã hội dị nghị, dèm pha, A gặp phải những mặc cảm cắn rứt, hối hận về một thời sinh viên bồng bột thiếu suy nghĩ…
Lật lại vấn đề, câu hỏi đặt ra đó là tại sao trong giới trẻ hiện nay lại muốn sông thử? Bên cạnh những lí do đã nêu ra trong tình huống của T.T.A còn có một số nguyên nhân khác như khi sinh viên quyết định sống thử họ chỉ thấy được một số cái lợi trước mắt: tiết kiệm chi phí ăn ở, chứng tỏ tình yêu đôi lứa, có chỗ dựa về tinh thần và kinh tế…nhưng họ không thể nhận ra được hậu quả mà việc sống thử để lại.
Trong xã hội mang đậm nét Á Đông như Việt Nam thì lối sống thử không được chấp nhận. Trào lưu sống thử từ phương Tây đã xâm nhập sang Việt Nam song giới trẻ của Việt Nam lại tiếp thu nó một cách không có chọn lọc. Vì vậy, khi du nhập một phong cách sống mới ta nên có sự chọn lọc, đào thải sao cho phù hợp với môi trường sống của mình.
Trở lại với tình huống của T.T.A ta thấy việc sống thử đã đem lại những hậu quả tiêu cực. Hay nói cách khác, nếu A không sống thử A đã không gặp phải những hậu quả trong cuộc sống gia đình sau này.
Nhìn chung, hầu hết các trường hợp sống thử đều đưa lại những hậu quả xấu. Tuy nhiên không phải ai cũng ý thức được điều đó. Theo khảo sát của Viện Khoa học xã hội TP HCM và TW Đoàn thanh niên cộng sản HCM thì tại năm trường Đại học của TP HCM và ba trường Đại học của Hà Nội chỉ có khoảng 28,9% sinh viên phản đối việc sống thử, còn phần đông cho rằng sống thử là không xấu. Như vậy ta cần phải có những giải pháp để chỉnh đốn những suy nghĩ lệch lạc của giới trẻ hiện nay (Giáo dục, tuyên truyền,…)
3. Vấn nạn giao thông:
Hàng trăm nghìn người ùn ùn đổ về xem pháo hoa bế mạc đại lễ 1000 năm Thăng Long khiến các tuyến đường quanh khu vực Mỹ Đình ùn tắc nghiêm trọng từ 15h chiều ngày 10/10 cho tới 2h sáng ngày 11/10/2010, nhiều người còn bị ngất xỉu.
Với tình huống trên, nguyên nhân cơ bản là do người và phương tiện lưu thông quá tải, dẫn đến hậu quả tắc nghẽn giao thông.
Như chúng ta đã biết, đại lễ 1000 năm Thăng Long là một sự kiện quan trọng của đất nước. Không những người dân trên khắp cả nước mà còn có cả du khách từ nhiều nước đều hướng về thủ đô. Trong không khí tưng bừng của đại lễ, Nhà nước ta đã tổ chức nhiều chương trình, nhiều hoạt động… góp phần làm đa dạng thêm bản sắc dân tộc, thể hiện một đất nước phát triển. Một trong những chương trình khiến mọi người quan tâm nhất đó là hoạt động bắn pháo hoa trong buổi bế mạc của đại lễ vào ngày 10/10/2010 tại sân vận động Mỹ Đình. Tại địa điểm này còn tổ chức văn nghệ và các hoạt động khác. Chính những chương trình này đã thu hút mọi người tập trung tại sân vận động Mỹ Đình. Đây là điều kiện tác động thêm vào nguyên nhân để dẫn đến hậu quả.
Nguyên cớ của tình huống: Đó là sự tò mò, sở thích của cá nhân, muốn tìm hiểu về nền văn hóa Việt Nam hay chạy theo tính phổ biến của xã hội,….
Một chuỗi nguyên nhân diễn ra kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt kết quả. Nếu đại lễ 1000 năm Thăng Long không tổ chức bắn pháo hoa hoặc bắn pháo hoa tại nhiều điểm thì sẽ không tập trung đông ở Mỹ Đình, từ đó cũng không dẫn đến tắc đường , không gây cho nhiều người bị ngất xỉu. Qua đó, ta thấy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân.
Trong tình huống trên có nhiều nguyên nhân dẫn đến tắc đường: Nguyên nhân sâu xa là do đại lễ tổ chức chương trình bắn pháo hoa, còn nguyên nhân trực tiếp do phương tiện giao thông qua lại quá nhiều. Ngoài ra còn do ý thức con người tham gia giao thông quá kém, sự chen lấn, xô đẩy của họ cũng gây không ít khó khăn cho việc đi lại, do sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, đường sá thì chật chội trong khi đó số lượng phương tiện giao thông thì quá nhiều … Tuy nhiên, chúng ta phải phân loại nguyên nhân, chỉ ra nguyên nhân cốt lõi để tìm biện pháp khắc phục. Trong trường hợp này nguyên nhân chính đó là do người và phương tiện lưu thông quá tải.
Từ việc con người và phương tiện giao thông qua lại quá nhiều dẫn đến nhiều kết quả: tắc nghẽn giao thông; tai nạn; sự vô ý thức chen lấn, xô đẩy nhau gây thiệt hại cơ sở vật chất của đường phố như phá hoại các hàng rào giao thông, tiếng ồn của phương tiện giao thông gây khó chịu cho người dân sống xung quanh…Vậy một nguyên nhân có thể gây ra nhiều hậu quả.
Hàng trăm nghìn người đổ dồn vào sân vận động Mỹ Đình gây tắc nghẽn giao thông. Nhưng tắc nghẽn giao thông lại làm cho nhiều người khó chịu và họ có thể quay trở về. Từ đó, giảm số lượng người xem pháo hoa. Qua đó, ta hiểu thêm một mối quan hệ: Kết quả tác động trở lại nguyên nhân.
Trong mối quan hệ này thì bắn pháo hoa là nguyên nhân còn kết quả là tắc đường nhưng đặt trong mối quan hệ khác việc tắc đường là nguyên nhân dẫn đến hậu quả có nhiều người bị ngất xỉu. Như vậy, nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau.
Tình trạng tắc nghẽn giao thông trong ngày bế mạc của đại lễ ở sân vận động Mỹ Đình là một đỉnh cao. Tuy nhiên, xét trên phạm vi cả nước tình trạng tắc nghẽn giao thông xảy ra liên tục trong các thành phố lớn, phổ biến nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trước thực trạng như vậy, nhà nước phải đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục hậu quả. Sau đây chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp:
- Trong quy hoạch tổng thể dài hạn của các đô thị nên chú ý phân bổ các khu công nghiệp, thương nghiệp, các tổ chức hành chính, trường học, bệnh viện,…một cách hợp lý và dãn dần ra khỏi các khu trung tâm , các khu phố cổ.
- Xây dựng mới và cải tạo các hệ thống đường giao thông cũ có tính toán hợp lý đến quy hoạch tổng thể dài hạn của đô thị. Việc này sẽ làm giảm mật độ giao thông nhưng đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn.
- Phát triển các loại hình phương tiện giao thông công cộng (xe buýt, tàu điện ngầm,…) cũng như phân phân phối số lượng phương tiện cho mỗi tuyến và số lượng điểm dừng, điểm đỗ một cách hợp lý để người sử dụng các phương tiện giao thông công cộng có nhiều tiện lợi hơn.
Tóm lại, vấn đề tắc nghẽn giao thông đã và đang là một vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng trong cả nước. Vì vậy, mọi công dân và những người có chức trách cần phải quan tâm nhiều hơn.
C. KẾT LUẬN:
Cặp phạm trù nguyên nhân kết quả xuất hiện rất phổ biến xung quanh cuộc sống của chúng ta. Vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta cần có cái nhìn toàn diện, cụ thể từng sự vật, hiện tượng để có cách giải quyết cho phù hợp.
*** DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2009
- Giáo trình triết học Mac – Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2006
- Giáo trình triết học Mac – Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004
Những nội dung cơ bản của triết học Mac – Lenin qua các tác phẩm kinh điển.
Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội – 2001
Một số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin
Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội - 2008