Là một sinh viên năm thứtư, đã được trang bịtương đối đầy đủkiến
thức của chuyên ngành Lịch sửVăn hoá, tôi phải hoàn thành luận văn tốt nghiệp
và cũng là bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu.
Tôi có may mắn là được người hướng dẫn Luận văn tốt nghiệp của tôi -
TS Lâm MỹDung gợi ý và tạo mọi điều kiện cho tôi vào Duy Xuyên - Quảng
Nam đểtìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghềtruyền thống ở đây.
Lần đầu tiên đặt chân đến miền Trung và với mục đích tìm hiểu về đời
sống văn hoá của một làng nghề, do kiến thức cá nhân còn ít ỏi và điều kiện thời
gian thực tếhạn hẹp, nên dù đã có được sựchỉbảo, hướng dẫn, góp ý tận tình
của thầy cô và bạn bè trong quá trình tìm kiếm tưliệu và cũng nhưkhi hoàn
thành luận văn nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong có
sựchỉdẫn, góp ý thêm.
69 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3006 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Làng nghề truyền thống của cư dân Mã Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI “Làng nghề truyền thống của cư
dân Mã Châu.”
2
LỜI MỞ ĐẦU
Là một sinh viên năm thứ tư, đã được trang bị tương đối đầy đủ kiến
thức của chuyên ngành Lịch sử Văn hoá, tôi phải hoàn thành luận văn tốt nghiệp
và cũng là bước đầu làm quen với công việc nghiên cứu.
Tôi có may mắn là được người hướng dẫn Luận văn tốt nghiệp của tôi -
TS Lâm Mỹ Dung gợi ý và tạo mọi điều kiện cho tôi vào Duy Xuyên - Quảng
Nam để tìm hiểu về đời sống văn hoá của một làng nghề truyền thống ở đây.
Lần đầu tiên đặt chân đến miền Trung và với mục đích tìm hiểu về đời
sống văn hoá của một làng nghề, do kiến thức cá nhân còn ít ỏi và điều kiện thời
gian thực tế hạn hẹp, nên dù đã có được sự chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý tận tình
của thầy cô và bạn bè trong quá trình tìm kiếm tư liệu và cũng như khi hoàn
thành luận văn nhưng luận văn vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong có
sự chỉ dẫn, góp ý thêm.
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin cảm ơn các thầy cô của Bộ
môn Lịch sử Văn hoá và Khoa Lịch Sử, trường ĐH KHXH&NV HN - nơi tôi đã
vàđang học tập; cảm ơn Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên, đặc biệt là chú
Dương Đức Quí và chị Nguyễn Thị Tuyết; cảm ơn thầy Nguyễn Chiều đã góp ý
và cung cấp tư liệu cho tôi; cảm ơn Ban dân chính, các cụ phụ lão và bà con
thôn Châu Hiệp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian tôi thực tập ởđây.
Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với TS Lâm Mỹ Dung -
giáo viên hướng dẫn của tôi - người đã dẫn dắt và chỉ bảo cho tôi không chỉ
trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp này.
3
1. Mục đích nghiên cứu
Người Việt từ xưa (và cho đến nay) đa phần là nông dân. Môi trường
sống của họ là Nông thôn - Nông nghiệp - Xóm làng. Phổ xã hội Việt Nam
truyền thống là Gia đình - Họ hàng - Làng nước. Trong tiến trình lịch sử dân tộc,
làng xã có một vai trò hết sức to lớn. Nó là tế bào sống của xã hội Việt Nam, là
môi trường sinh tụ và hoạt động của nông dân Việt Nam. Mỗi bước thăng trầm
của dân tộc thường để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống làng xã.
Làng nghề truyền thống là nguồn tài sản quý giá của đất nước cần được
bảo tồn và phát triển. Tài sản đó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội mà còn
thể hiện nền văn hoá, văn minh độc đáo của dân tộc Việt Nam. "Những làng
nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ trăm ngàn năm) "dân biết
mặt, nước biết tên", tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ... trở thành di
sản văn hoá dân gian"[36.372].
Sau một thời gian mai một, hiện nay làng nghề đã và đang được quan
tâm phát triển. Sự đổi mới cơ chế quản lý cũ sang cơ chế thị trường với sự điều
tiết của nhà nước từ Đại hội VI (năm 1986) đã tạo ra bước ngoặt quan trọng,
thúc đẩy sự phát triển sản xuất nói chung và các ngành nghề truyền thống nói
riêng. Sự phát triển của làng nghề, đặc biệt là những ngành nghề mới trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) nông thôn là một xu hướng tất
yếu khách quan. Nhưng hiện nay vẫn còn không ít các làng nghề chưa phục hồi
được sản xuất, nhiều nghề bị mai một, đội ngũ nghệ nhân ngày càng suy giảm.
Các làng nghề cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức như là thị
trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn vốn, trang thiết bị công nghệ...[2.235]. Vì vậy
vấn đềđặt ra là phải tìm hiểu các làng nghề truyền thống, phải có một cái nhìn
4
toàn thể về nó. Từ đó mới có thể hoạch định những phương hướng, cách thức
bảo tồn và phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay.
Bảo tồn làng nghề truyền thống cũng chính là bảo tồn các giá trị văn
hoá dân tộc. Muốn bảo tồn và phát triển các làng nghề thì trước hết, chúng ta
phải tìm hiểu những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề. Bởi "văn
hoá"được coi "là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa làđộng lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
BCHTƯĐảng (Khoá VII) đãđề ra. Những yếu tố truyền thống đó kết hợp với
những yếu tố hiện đại như thế nào và vai trò của nó trong sự phát triển của làng
nghề? Như vậy mới có thể bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong
quá trình CNH-HĐH một cách có hiệu quả. Đây cũng chính là mục đích của
luận văn tốt nghiệp "Làng dệt Mã Châu - xưa và nay".
Khi đặt Xưa (truyền thống - theo cách hiểu thông thường là những giá
trị văn hoá từ xưa để lại) và Nay (hiện đại), tôi không cóýđịnh so sánh, mà dựa
trên tinh thần "ôn cố tri tân" (tìm cũđể biết mới). Bởi chỉ có hiểu biết sâu sắc về
làng nghề và những yếu tố văn hoá truyền thống của làng nghề thì khi gia nhập
vào công cuộc CNH-HĐH chúng ta mới có thể phát huy tốt vai trò của làng
nghề mà không làm mất đi những giá trị văn hoá riêng đặc sắc của nó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng xã là đối tượng nghiên cứu của Khoa học Lịch sử và nhiều ngành
khoa học khác với diện nghiên cứu đa dạng và phong phú. Đến nay việc nghiên
cứu đã đạt được nhiều kết quả. Các công trình nghiên cứu chung hoặc mang tính
chất chuyên khảo về làng nghề cũng đã được nhiều người công bố.
Làng dệt Mã Châu và làng xã vùng Duy Xuyên- Quảng Nam nói
chung, vì nhiều lý do, việc nghiên cứu mới có những kết quả chung có tính chất
5
khái quát, ít có những công trình nghiên cứu chuyên sâu. Và về làng nghề Mã
Châu chỉ có một số bài viết chung, gián tiếp đề cập đến.
- Bài viết: Câu ca làng nghề của Văn Thành Lê đăng trên tạp chí Văn
hoá Quảng Nam số 18 tháng 12.1999. Trên cơ sở tìm hiểu nghề dệt ở Duy
Xuyên, ông nói đến ảnh hưởng của nghề dệt với đời sống cư dân ởđây.
- Bài báo: Duy Xuyên ngày mai xanh lại những biền dâu? của
Hoàng Thơ trên báo Quảng Nam chủ nhật ngày 9.3.2003. Từ những số liệu của
nghề dâu tằm ở Duy Xuyên trong những năm gần đây, tác giả khẳng định khả
năng phát triển của nghề dệt ở vùng này.
- Bài viết: Ông Cửu Diễn - người du nhập kỹ thuật dệt mới vào Duy
Xuyên (tư liệu của chị Nguyễn Thị Tuyết - Phòng Văn hoá huyện Duy Xuyên)
nói về sự cải tiến kỹ thuật dệt ở Duy Xuyên hồi đầu thế kỷ XX.
3. Các nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
3.1. Tư liệu chữ viết
3.1.1. Thư tịch cổ gồm có:
- Thuỷ kinh chú [9]
- Đại Việt sử ký toàn thư [3]
- Phủ biên tạp lục [8]
- Đại Nam nhất thống chí [19]
- Đồng Khánh địa dư chí [5]
3.1.2. Tư liệu chữ viết sưu tầm tại địa phương gồm có:
- Quy ước văn hoá thôn Châu Hiệp [20]
- Dự thảo tộc ước làng mã Châu [1]
- Tóm tắt lược sử các chư phái tộc làng Mã Châu [32]
6
- Gia phả họ Phạm thôn Mã Châu Thượng (chữ Hán)
- Gia phả họ Trịnh thôn Mã Châu Đông (cả phần chữ Hán và bản dịch)
3.2.Tư liệu điền dã
Trong điều kiện làng nghề Mã Châu mới chỉ có những bài nghiên cứu
chung, mang tính chất nền tảng bước đầu, chưa có sựđi sâu, tìm hiểu toàn diện
thì tư liệu điền dã là một nguồn tư liệu quan trọng giúp tôi thu thập thông tin để
phục vụ cho luận văn. Phương pháp điền dãđược sử dụng để lấy những loại
thông tin:
- Nghề dệt truyền thống (với những công đoạn trông dâu, nuôi tằm,
ươm tơ, dệt lụa).
- Phong tục tập quán và sinh hoạt văn hoá của cư dân làng Mã Châu.
- Các hoạt động trao đổi, buôn bán...
Trong đó nguồn tư liệu hồi cố của các cụ già trong làng là một nguồn tư
liệu vô cùng quý báu vì luận văn chủ yếu nghiêng về khía cạnh văn hoá của
làng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp nghiên cứu đã được tôi sử dụng để hoàn thành
luận văn gồm:
Phương pháp điền dã dân tộc học và phương pháp phỏng vấn được sử
dụng trong thời gian khảo sát và sưu tầm tư liệu tại địa phương. Đây là những
phương pháp chủ yếu được tôi sử dụng để thu thập tư liệu phục vụ cho luận văn.
Dựa trên những nguồn tư liệu thu thập được tôi đã sử dụng phương
pháp so sánh, phân tích và tổng hợp tư liệu. Từđó hệ thống hoá những tư liệu đã
thu thập được đểđưa vào hoàn thành luận văn.
7
Phương pháp tiếp cận liên ngành là phương pháp quan trọng được tôi
sử dụng từ khi khảo sát điền dã lấy tư liệu cho tới khi hoàn thành luận văn. Bởi
văn hoá làng là"một phức thể thống nhất trong đa dạng"[36.25] cần được tiếp
cận và nghiên cứu từ nhiều hướng.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm có ba phần: Phần mở đầu (6 trang); Phần nội dung
(52trang) và phần kết luận (3 trang).
Nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên-lịch sử, xã hội và con
người.
- Chương 2: Làng nghề truyền thống.
- Chương 3: Đôi nét về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của
cư dân Mã Châu.
Ngoài ra luận văn còn có phần tài liệu tham khảo, sách dẫn và phụ lục
gồm 20 trang.
8
Chương 1: KHÁIQUÁTVỀĐIỀUKIỆNTỰNHIÊN-LỊCHSỬ,
XÃHỘIVÀCONNGƯỜI
1.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc
thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành
phốĐà Nẵng 30 km đi theo Quốc lộ 1A, đoạn từĐà Nẵng đi Tam kỳ - Quảng
Nam.
Vị tríđịa lý của làng Mã Châu, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một
đoạn của sông Bà Rén, vìởđoạn sông này có cây cầu Chìm bắc qua sông nên gọi
như vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mậu
Hoà cũng cách nhau ở nhánh thượng lưu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với
làng Trung Lương (thôn Xuyên Tây 1) lấy đường gianh giới là con đường tỉnh
lộ 610 (chạy từ Bàn Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác
đồng bằng châu thổ Duy Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và Bà
Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện
tích đất nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ cư là 43 ha, phần còn lại là diện
tích ao hồ, sông suối vàđất bồi ở ven sông. Với 560 hộ, dân số là 2692 người.
9
Quảng Nam là vùng đất có nhiều sông ngòi >1km/1km2 nhưng sông
ngòi ởđây ngắn và dốc "từ nguồn suối núi rừng đến vịnh cửa sông đổ ra biển chỉ
cách nhau khoảng 100 - 150 km đường chim bay. Nước sông thường trong xanh
và như thế có nghĩa làít phù sa và những đồng bằng do chúng tạo thành thì
không lớn. Tuy nhiên so với Bình Trị Thiên Trung Trung bộ, ởđất Quảng đường
cốt núi lùi vào trong hơn vì thế màđồng bằng lại rộng ra, đồng thời còn phát
triển sâu vào trong vùng đồi ngược theo các thung lũng sông nhỏ. Chính vì thế
màởđất Quảng núi - đồi - đồng bằng dính liền với nhau khá chặt"[37.424].
Quảng Nam có hai nguồn sông lớn là sông Vu Gia và sông Thu Bồn gặp nhau
tại vùng Giao Thuỷ (Đại Lộc) vàđến Duy Xuyên thì chia thành hai nhánh cùng
đổ ra cửa Đại là nhánh sông Thu Bồn ở phía Bắc và nhánh sông Bà Rén ở phía
Nam nhỏ hơn.
Sông Thu Bồn bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (cao 2.859m), nằm giáp
giữa huyện Trà My và Kon Tum, nơi có lượng mưa trung bình 4000 mm/năm
[26.34]. Do vậy, sông Thu Bồn và Vu Gia là hai dòng sông lớn đã hợp lưu với
nhau bồi đắp nên vùng đất đai trù phúĐiện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên... nhưng
càng về phía Đông càng pha nhiều cát biển và phải chịu ảnh hưởng của thuỷ
triều. Những vùng khác nhưđồng bằng sông Ly Ly, Tam Kỳ, đất pha nhiều cát
và nghèo hơn đất vùng sông Thu Bồn, do sông nhỏ, nước lũ không lớn, phù sa
không nhiều, không đủ nước tưới cho ruộng đồng về mùa hạn [37.418-431].
Nóđãđược tổng kết trong câu thơ dân gian:
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm1
1GS TrÇn Quèc V−îng ®· m« h×nh ho¸ miÒn Trung thµnh mét h×nh hép ch÷ nhËt vµ mçi xø,
vïng lµ nh÷ng h×nh hép ch÷ nhËt ngang víi nh÷ng thµnh tè: Nói ®åi - §Ìo - S«ng - §Çm ph¸ -
C¶ng ven s«ng, ven biÓn - H¶i ®¶o vµ c¸c thµnh tè Nói - BiÓn - S«ng - §Ìo tuy cã yÕu tè chia
c¾t c¸c vïng miÒn song l¹i mang yÕu tè g¹ch nèi nhiÒu h¬n [37.309-340].
10
Do tính chất sông ngòi như vậy màđất đai ởđây xưa kia phần lớn làđất
khô cằn, nước tưới tiêu cho đồng ruộng hoàn toàn phụ thuộc vào "nước trời".
Duy chỉ có vùng hạ lưu các sông, đặc biệt là hạ lưu sông Thu Bồn (vùng Duy
Xuyên, Điện Bàn) nhờ phù sa hàng năm bồi đắp nên hai bên bờ sông tạo thành
những đồng ruộng phì nhiêu thuận lợi cho việc canh tác, trồng trọt, nhất là trồng
lúa, trồng dâu [22.202].
Huyện Duy Xuyên nằm dọc về phía bờ Nam sông Thu Bồn, địa hình
trải dài từ núi ra biển, có bốn nhánh sông lớn là Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và
Trường Giang. Đất đai ởđây được thừa hưởng nguồn phù sa dồi dào từ thượng
nguồn các nhánh sông Thu Bồn đổ về làm cho màu mỡ, dần dần đẩy lùi nước
biển từ bãi cát Tây An, xã Duy Trung tạo thành những giải đất phì nhiêu kéo dài
từ miếu Thành Hoàng Mã Châu cho đến Phụng Châu, Long Châu, Triều Châu...
của xã Duy Phước, Duy Vinh ngày nay. Làng Mã Châu với địa thếởđỉnh tam
giác châu lại được bao quanh bởi sông Bà Rén nên hàng năm, sau mỗi mùa lũđã
nhận được một lượng phù sa đáng kể, rất thuận lợi cho sự phát triển nghề nông
tang ởđây.
Nói chung, địa hình ở Duy Xuyên đồi núi, sông hồ, đầm phá gắn kết
với nhau khá chặt chẽ. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn sông hồ lầy lội, đi ghe
thuyền tiện hơn đi chân. Việc đặt tên các xứđất ở Mã Châu: Đồng Rẫy, Lục
Nhơn, Bàu Trước, Bàu Tự, Bàu Răm, Bàu Mạn, Bàu Tỉnh, Bàu Khế, Bàu Chùa,
đất bồi xóm bãi (Thượng tự phù sa đồng canh xứ)... cũng đã phần nào nói nên
điều này.
Mã Châu trong bối cảnh Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung thuộc đới
khí hậu Á xích đạo, với lượng cân bằng bức xạ 95 kcal/cm2/năm (tổng nhiệt độ
9500°C). Đất Quảng Nam nằm trong gianh giới vĩ tuyến 14°B đến 16°B, không
có mùa khô rõ rệt do tác dụng bức chắn của khối núi Bắc Kon Tum. Cũng vì vậy
11
mà trong mùa gióĐông Bắc, Quảng Nam vẫn giữđược một lượng mưa đáng kể.
Nhiệt độ trung bình các tháng đều >20°C nên ở Quảng Nam không có mùa
Đông lạnh. Mùa mưa ởđây "lệch pha" so với hai đầu Nam Bắc, bắt đầu từ tháng
9, tháng 10, giảm dần về cuối năm và kết thúc vào tháng 1. Từ tháng 5 đến tháng
8, do ảnh hưởng của gió Lào làm khí hậu khô nóng. Đại Nam nhất thống chí,
mục Quảng Nam tỉnh chép: "Khí trời nóng nực, nhiều lạnh ít mưa; chất đất phù
bạc, nhiều khô hạn ít màu mỡ. Hết tháng chạp thì gióĐông nổi, tiết kinh chập thì
mưa xuân phần; gió Nam mạnh về mùa Hạ, gió Bắc rét về mùa Đông; mùa Thu
gió mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa Đông hết
lụt thì bãi sông bằng (mùa Đông sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng phẳng tức là
hết kỳ mưa lụt)... Thỉnh thoảng cũng có gió bão"[19.337].
Do ảnh hưởng của khí hậu Á xích đạo nên thành phần sinh vật mang
nhiều đặc điểm Mã Lai, Iđônêsia...
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng Mã Châu.
Làng Mã Châu (mà theo tên hành chính là thôn Châu Hiệp, xã Duy An
cũ hay thi trấn Nam Phước mới thành lập năm 1995) trong bối cảnh toàn vùng
Duy Xuyên và mở rộng hơn là xứ Quảng - Quảng Nam là vùng đất có truyền
thống lịch sử lâu đời. Nóđãđược GS Trần Quốc Vượng khái quát: "Ở xứ Quảng
- Quảng Nam - Việt Nam lại có sự xếp tầng (stratigraphi) xếp lớp văn hoá, quá
trình lắng đọng - trầm tích (sédimentation) văn hoá qua diễn trình lịch sử kể từ
dưới lên trên:
7 - Văn hoá Quảng Nam hiện đại.
6 - Văn hoá Kinh - Việt.
5 - Văn hoá Chămpa - Ấn.
4 - Văn hoá Sa Huỳnh - Đại Lộc.
12
3 - Văn hoá tiền Sa Huỳnh (Bàu Trám, Phúc Hoà).
2 - Văn hoá Bãi Ông (Cù Lao Chàm).
1 - Văn hoá Bàu Dũ hậu Hoà Bình (hay truyền thống Hoà Bình)...
[22.35].
Năm 1981 di chỉ Khảo cổ học Bàu Dũ thuộc thời đại đá mới ở thôn Bút
Đông, xã Tam Xuân, huyện (nay là thị xã) Tam Kỳđược phát hiện và khai quật.
Bàu Dũ là một di chỉ cồn sòđiệp, căn cứ vào cấu tạo tầng văn hoá, được
xếp vào loại hình di tích đống rác bếp. Bàu Dũ có nhiều nét tương tự với văn
hoá Hoà Bình ở miền Bắc (có niên đại 15000 đến 8-6000 năm cách ngày nay)
bởi kỹ thuật chế tác và công cụđá; và di tích văn hoá Quỳnh văn ở ven biển
Nghệ An (đầu thời đại đá mới) ở hình thức mộ táng (huyệt tròn, trôn người bó
gối trong đống vỏ sòđiệp).
Những hiện vật khai quật được ở Bàu Dũ cho biết nền kinh tế của cư
dân Bàu Dũ là kinh tế săn bắt (bắn), hái lượm theo phổ rộng của hệ sinh thái bờ
biển. Địa bàn cư trú của họ là những vùng cửa sông ven biển. Tại đây đã thu
lượm được một số lượng lớn xương cốt động vật và vỏ nhuyễn thể (nhưng chưa
thấy di cốt của loài vật đãđược thuần dưỡng) cho thấy trước đây vùng này là
vùng rừng xen lẫn với những trảng cỏ rộng lớn và những bàu nước ngọt như
Bàu Dũ, Bàu Mê, Bàu Trám... [33].
Quảng Nam hiện nay vẫn là nơi phân bố dày đặc nhất những di tích
khảo cổ học của văn hoá Sa Huỳnh. Tính riêng ở huyện Duy Xuyên đã phát hiện
hàng chục di chỉ trong vòng vài năm gần đây. Những di tích này được phát hiện
ở những khu vực sinh thái đa dạng: núi, đồi, gò, ven sông... với mật độ chum mộ
vàđồ tuỳ táng dày đặc. Đa số các di tích phân bốở trên những cồn cát cổ, dọc
theo các con sông Thu Bồn và Bà Rén.
13
Các di tích Sa Huỳnh ở Duy Xuyên tìm thấy, đặc biệt phân bố rất dày
đặc ở các cồn cát cổ ven theo bờ Nam sông Bà Rén, thuộc khu vực thôn Mậu
Hoà, xã Duy Trung (tức là cách làng Mã Châu hiện nay một bờ sông) như: gò
Mả Vôi, gò Miếu Ông (đãđược khai quật), gò Tây An, gò Cấm, gò Bờ Rang, gò
Bà Hòm, gòÔng Nhan... [14].
Mộ táng Sa Huỳnh ởđây có nhiều táng thức khác nhau, với những loại
hình: mộ chum, mộ vò và mộ huyệt đất, nhưng phổ biến nhất là mộ chum. Chum
mộ hình cầu với những kiểu biến thểở miệng, thân, đáy thành hình trái xoan, trái
đào, hình trứng... mộ chum kép (chum đôi lồng nhau), với nắp đậy hình nón cụt
hoặc hình lồng bàn. Đồ gốm ởđây rất đa dạng về loại hình cũng như hoa văn
trang trí như: nồi, bát bồng, đèn, cốc chân cao, bình, vò... với đồán hoa văn phức
tạp kết hợp khắc vạch, tô màu... Khiếu thẩm mỹ của người Sa Huỳnh rất phong
phúđược thể hiện qua cách sử dụng đồ trang sức với những chất liệu: mã não,
thuỷ tinh, vàng, đá, nephrit... Bộ sưu tập đồđồng vàđồ sắt cũng rất phong phú
với những loại hình: rìu, lao, dao, đục... Các hiện vật tìm được đã cho thấy ởđây
từ rất sớm, người Sa Huỳnh đã mở rộng giao lưu văn hoá với các vùng khác. Bộ
sưu tập đồđồng ở gò Mả Vôi cho thấy sự giao lưu với văn hoáĐông Sơn, còn bộ
sưu tập đồđồng ở gò Dừa lại cho thấy sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá Hán
[14.32].
Kết quả nghiên cứu còn cho biết cư dân Sa Huỳnh là cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước ở vùng đồng bằng duyên hải. Họđã biết trồng lúa và một
số loại cây lương thực khác như: khoai, sắn, lạc, đậu... Có thể cây lấy sợi như
bông, đay, gai đãđược cư dân Sa Huỳnh trồng để phát triển nghề dệt sợi. Các dọi
xe sợi đã nói lên sự phát triển của nghề thủ công này trong văn hoá Sa Huỳnh.
Việc buôn bán trao đổi của họ cũng rất phát triển. Nghềđi biển đãđược người Sa
Huỳnh biết đến và yếu tố biển đãăn sâu vào đời sống của họ. Do vậy cốt lõi của
14
nghệ thuật Sa Huỳnh là miêu tả thiên nhiên mà chủ yếu là biển cả [35.445].
Trong đó Hội An với vai trò của một cảng thị sơ khai là minh chứng cho sự giao
thương và giao lưu văn hoá giữa Sa Huỳnh và những nền văn hoá khác qua
đường biển.
Trên nền tảng văn hoá bản địa, kế thừa những di sản từ văn hoá Sa
Huỳnh, tiếp thu những ảnh hưởng của văn hoáẤn Độ, cùng nhiều yếu tố khác
của các nền văn hoá láng giềng, dân tộc Chăm trên chặng đường dài 14 thế kỷđã
sáng tạo nên nền văn hoá riêng, độc đáo của mình.
Chămpa có niên đại khởi đầu vào cuối thế kỷ II theo thư tịch cổ Trung
Quốc. Gắn liền với sự kiện năm 192 Khu Liên nổi dậy chống nhà Hán, lập nước
Lâm Ấp (ở vùng đất Quảng Nam ngày nay)2. Đó là vương quốc Chămpa của
người Chăm với đô thành Sư Tử (Simhapura), nay là Trà Kiệu - Duy Xuyên. Tại
đây, trên ngọn núi Bửu Châu - ở giữa kinh đô Trà Kiệu, trong một lần đi điền dã
từđầu thập kỷ 80, GS Trần Quốc Vượng đã "đốn ngộ" ra mô hình quy hoạch các
tiểu quốc Chămpa như sau:
Núi Sông Thu Bồn
Tây Thánh địa Thành Sư Tử Cảng thị Hội An Biển Đông Tiền
cảng
Mỹ Sơn (Simhapura) (Chămpapura) (Cù Lao Chàm)
2Thêi S¬ B×nh nhµ hËu H¸n (190 - 192) Khu Liªn, mét c«ng tµo huyÖn T−îng L©m ®· lîi dông
lóc nhµ H¸n suy yÕu, næi dËy chiÕm quËn NhËt Nam vµ x−ng Vua ë T−îng L©m-mét huyÖn
cùc Nam cña quËn NhËt Nam, lËp ra n−íc L©m Êp. Tªn L©m Êp cã thÓ do b¾t nguån tõ ch÷
T−îng L©m (rõng voi). Cßn tªn Ch¨mpa th× kh«ng biÕt ra ®êi t