Đề tài Lễ bỏ mả của các tộc người tây nguyên

Theo địa lý hành chính hiện nay Tây Nguyên có 5 tỉnh, kể từ bắc vào nam: Kontum, Gialai, Đắc lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên, một vài dân tộc thiểu số Tây Nguyên sống rải rác khắp nơi như: dân tộc Cơ-tu ở miền Nam Trường Sơn, dân tộc Hre ở miền Tây tỉnh Quảng Nam, dân tộc Rakglei ở miền Tây các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, dân tộc Mạ ở vùng Cát Tiên. Như vậy, khái niệm Tây Nguyên xét về mặt dân tộc, văn hóa, xã hội, có thể cả lịch sử và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính.

pdf23 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4139 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lễ bỏ mả của các tộc người tây nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: LỄ BỎ MẢ CỦA CÁC TỘC NGƯỜI TÂY NGUYÊN I Khái quát về Tây Nguyên: 1 Vị trí địa lý: Theo địa lý hành chính hiện nay Tây Nguyên có 5 tỉnh, kể từ bắc vào nam: Kontum, Gialai, Đắc lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên, một vài dân tộc thiểu số Tây Nguyên sống rải rác khắp nơi như: dân tộc Cơ-tu ở miền Nam Trường Sơn, dân tộc Hre ở miền Tây tỉnh Quảng Nam, dân tộc Rakglei ở miền Tây các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, dân tộc Mạ ở vùng Cát Tiên. Như vậy, khái niệm Tây Nguyên xét về mặt Hình: bản đồ địa hình Tây Nguyên. dân tộc, văn hóa, xã hội, có thể cả lịch sử và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính. 2 chủ thể văn hóa Tây Nguyên: Các tộc người sống trên địa bàn văn hóa Tây Nguyên như:Gie Triêng, Xơđăng, Cơtu, Bana, Giarai, Raklay, Eđê, Mơnông, Mạ, Stiêng, Sre…trong đó tộc người Bana. Êđê là chủ thể chính của nền văn hóa Tây Nguyên. 1 II Lễ bỏ mã của các dân tộc ở Tây Nguyên: II.1 Khái quát về nhà mồ của các tộc người Tây Nguyên: Người Hy Lạp nói: “Người Ai cập để tâm nhiều nhất về ngôi nhà vĩnh viễn của mình hơn là ngôi nhà mình đang cư ngụ”. Đối với người Hy Lạp, ngôi mộ được xem là ngôi nhà của người đã chết và cũng là ngôi nhà của người đang sống. Sau này người Hy lạp có thói quen thiêu nhiều hơn là chôn. Tại những vùng văn hóa Mẫu hệ, ngôi mộ được xem như là cung lòng bà mẹ, nơi trú ngụ an tòan, nơi con người được sinh dưỡng, mộ phần là nơi để tái sinh, cũng là nơi tối tăm nhất thời không thể tránh khỏi, để bước vào cõi vĩnh hằng. Những người dân tộc vùng Tây Nguyên Việt nam có lễ bỏ mả hằng năm, và là loại lễ mang nhiều sắc thái văn hoá nhất. Có rất nhiều thể hình nghệ thuật được chăm chút như nhà mồ, tượng mồ, múa, nhạc, con rối, mặt nạ, những dụng cụ giả để chia cho người chết; phải chuẩn bị nhiều thứ đồ ăn uống. Lễ bỏ mả của người Tây Nguyên là lễ hội thể hiện tính cộng đồng rất cao. Lễ bỏ mả mang tính chất nối linh thiêng vào đời như người ta vẫn hằng tin tưởng. Người Giarai thì có câu “Bơlan ning nông thông atâu” (tháng nghỉ đi chơi lễ bỏ mả); người Bana thì có câu: “Khêi ning nơng pơm bơxát” (tháng nghỉ làm nhà mả). Việc chôn người chết, làm ma cho người quá cố, là một dấu chỉ chứng minh con người có tâm linh. Vì tin rằng con người chết không phải là hết nên người Giarai, Bana hay như những tộc người khác làm lễ đưa tiễn người chết sang một trạng thái sống khác. Vị trí: Nhà mồ Tây Nguyên có ở hầu hết các tỉnh Tây Nguyên. Đặc điểm: Nhà mồ Tây Nguyên được xây cất theo phong tục tang lễ ở vùng Tây Nguyên, lúc đầu là chòi nhỏ sơ sài, sau đó một hoặc vài ba năm thân nhân gia đình người chết dựng lại nhà mồ mới khang trang, trang trí nhiều tượng gỗ.  Kỹ thuật xây dựng :nhà mồ của các tộc người Tây Nguyên được xây dựng bằng những vật liệu và kiến trúc hoàn toàn thô sơ, chỉ có hệ thống kết nối bằng gá, buộc chứ không có hệ thống kèo, mộng. Vật liệu xây dựng chỉ có gỗ nứa, lá mà không 2 dùng gạch; công cụ xây dựng chỉ có dao, rìu mà không có cưa…Chính điều đó tạo cho nhà mồ một dáng vẻ nguyên sơ mộc mạc với nét đẹp tự nhiên nguyên thủy. II.2 Đặc trưng nhà mồ của một số tộc người Tây Nguyên: II.2.1 Nhà mồ Gia Rai: Trong trang trí nhà mồ thì nhà mồ Gia Rai mang tính đặc trưng hơn cả, và đòi hỏi một sự tỉ mỉ trong từng chi tiết. Mái nhà mồ được đan bằng nan của cây tre hoặc cây lồ ô và được vẽ trang trí bằng các màu đỏ, đen, trắng. Ngày nay, người Gia Rai còn sử dụng tôn miếng và sơn công nghiệp để vẽ trang trí. Trên mái nhà mồ người ta vẽ lên đó những hình ảnh mô tả cuộc sống sinh hoạt thường ngày của tộc mình như hình cây cỏ, chim muông, các con thú, vật nuôi quen thuộc...Đặc biệt là có cả cho vũ trụ, cho mặt trời, mặt trăng, thế giới thần linh mà đôi khi họ coi đó là biểu trưng cho cuộc sống của người chết. Trên nóc mái nhà mồ là một tấm gỗ cao, dày khoảng 2 - 3 cm được đặt chạy dọc theo mái và được chạm khắc, đục đẽo tạo thành rất nhiều hình thù mô tả cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như hình người cầm chày giã gạo, hình các con chó, khỉ, hình cây cối...Đây là một nét đặc trưng chỉ có trên nhà mồ của tộc người Gia Rai. (hình 1). II.2.2 Nhà mồ Cơ Tu: Khác với nhà mồ của người Gia Rai, nhà mồ của người Cơ Tu thường nhỏ hơn nhưng phần trang trí cũng công phu không kém. Tuy nhiên, số lượng cột gỗ ít hơn, chỉ có sáu cột cái để đỡ mái. Vì nhỏ hơn nên mái nhà mồ của người Cơ Tu thường đượclàm bằng chất liệu gỗ. Đó là những miếng gỗ mỏng được xẻ ra từ những cây gỗ được chặt hạ và phơi khô từ trước đó hàng tháng. Trước đây, khi còn nhiều cây gỗ to, người Cơ Tu chỉ dùng tám đến mười miếng là đủ. Ngày nay, hầu hết là gỗ nhỏ nên số lượng các mảnh gỗ trên mái nhiều hơn và vì thế sự chạm khắc trang trí cũng đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn. 3 Đặc trưng nhất cho mái nhà mồ của người Cơ Tu là sự chạm khắc thành các hình tam giác lượn song trên từng thanh gỗ chặn ngang trên mái. Với cách chạm khắc trang trí như vậy tạo ra cho mái nhà mồ một sự chắc chắn, sẵn sàng tồn tại cùng với mưa nắng và sự tàn phá của tự nhiên theo thời gian. Đặc biệt, trong nhà mồ của người Cơ Tu có hình tượng bốn đầu trâu được tạc ở hai góc phía tây và hai phía đối lập nhau trên nóc của mái nhà. Đó là biểu trưng cho sức mạnh và sự dẻo dai, sự vững chắc cho ngôi nhà của người chết. Hình tượng hai con rồng trên nóc mái biểu trưng cho quyền lực và sự linh thiêng của cuộc sống trong thế giới của người chết và hình tượng hai con rắn quấn vào nhau được biểu trưng cho quan niệm: cuộc sống là vô tận. Bởi tộc người Cơ Tu cho rằng cái chết là kết thúc cuộc sống này nhưng lại để bắt đầu một cuộc sống khác giống như hiện tượng rắn lột xác. (Hình 2).( hình 3) II.2.3 Nhà mồ Ba Na: Mái nhà mồ của người Ba Na lại có cơ cấu phát triển theo chiều cao, đa số các trường hợp làm bằng tre đan có trang trí họa tiết hoa văn hình học với hai mặt phẳng chính. Mỗi một loại hoa văn với cách sắp xếp khác nhau là một gợi ý về vũ trụ luận. Có thể đó là biểu tượng của mặt trời, mặt trăng và các thiên thể. Người Ba Na gọi cột là Klao và họ quan niệm đó là đường dẫn linh hồn người chết lên trời, họ còn gọi các vật trang trí bên ngoài là mặt Nar (mặt trời), mặt Khei (mặt trăng). Nhìn chung, trang trí cho mái nhà mồ của người Ba Na thường đi sâu vào họa tiết và không nhiều như của người Gia Rai hay không sắc cạnh thể hiện rõ đường nét như của người Cơ Tu, nhưng vẫn toát lên vẻ huyền bí và linh thiêng cho thế giới của người chết. 4 Hình 1: Nhà mồ của người Gia Rai tại Hình 2: Nhà mồ của người Cơ Tu tại Viện bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội Viện bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội. Hình 3: hiện vật trong nhà mồ của dân tộc Cơ Tu. (ảnh nhandan.com.vn) II.3 Tượng nhà mồ: Quanh nhà mồ là một hàng rào có trang trí tượng gỗ. Những tượng gỗ này có nội dung hết sức phong phú đa dạng, phản ánh đầy đủ và chân thực cuộc sống của người dân tộc Gia-rai và Ba-na. Song tụ lại ở một điểm chung đó là chúng đều diễn tả về sự phồn thực, ước vọng sang bên kia thế giới có được cuộc sống sung túc, phú quí. ở Tây Nguyên, nghi thức sinh thành cũng được quan niệm và thể hiện qua hành động giao hoan. Mặc dù, nghi thức đó hiện nay không còn nữa, nhưng theo lời kể của các cụ già trước đây, vào những đêm bỏ mả trai gái được tự do quan hệ tình ái. 5 Tượng nhà mồ là để phục vụ cho người đã chết ở thế giới bên kia. Cũng có quan niệm cho rằng, như nhiều nơi khác trên thế giới, xưa kia ở vùng Tây Nguyên này, một khi vị tù trưởng mất thì tù binh đều được chôn theo. Giờ đây, người Tây Nguyên tạc lên tượng nhà mồ những con người hay những con vật với ước muốn những con người và vật đó sẽ theo hầu hạ người chết ở thế giới bên kia. Về các loại tượng nhà mồ thì có thể chia làm hai lớp tượng. Lớp đầu tiên là hình ảnh phổ biến nhất trong tất cả các nhà mồ: tượng giao hoan, đàn bà chửa và hài nhi được thể hiện cùng một lúc trên một mặt phẳng của lối rào quanh mồ. Lớp thứ hai là hình tượng những con người, con vật như người người đánh trống, cô gái, chàng thanh niên, cầu thủ đá bóng, con voi, con chim, con cú... Tất cả những hình tượng đó được đặt quanh nhà mồ và tạo ra cột bức tranh sinh động về cuộc sống để người chết sẽ mang đi sau lễ bỏ mả. Theo dòng thời gian, các bức tượng nhà mồ này mang tình hiện thực hơn. Cái thực ấy được thể hiện chủ yếu bằng các nét, các khối mang tính khái quát cao. Và cũng chính những đặc tính ấy mà tượng nhà mồ đã góp phần tạo nên nét hoành tráng cho riêng mình. 6 Những tập hợp tượng mồ phong phú ấy tạo nên một bảo tàng chân thực và cuộc sống của người Gia-rai và Ba-na xưa, trở thành những pho sử sống động có giá trị thẩm mỹ và khoa học. Tượng được gọt đẽo thô sơ, giản lược trong đường nét, hình khối, có tính gợi tả chứ không cặn kẽ chi tiết, song hết sức sinh động, mộc mạc mà chân thực, mang đậm triết lý nhân sinh, cái siêu thực và cái hiện thực đan xen hài hòa. III Các nghi thức tiến hành lễ bỏ mả: III.1 Nguồn gốc lễ bỏ mả của các tộc người ở Tây Nguyên: Lễ bỏ ma tiếng Êđê là Vidhi atơu. Lễ bỏ mả cũng được xem là lễ mãng tang của ngừơi Kinh 7 Người Raglai với quan niệm rằng: Khi một người chết, hồn vía của họ sẽ thất lạc, bơ vơ . Vì vậy họ có tục gọi hồn người chết nhập vào một vật nào đó trước khi làm lễ mãn tang (Lễ bỏ ma). Lễ bỏ mã của người Tây Nguyên được hình thành do tín ngưỡng đa thần giáo của họ. Người Tây Nguyên tin rằng thế giới tự nhiên là do một thần linh tối thượng tạo ra, đó là Giàng(Yang) tức là Trời. Mỗi sự vật hiện tượng lại có các thần linh khác cai quản như thần sông, thần núi, thần mặt Trăng, thần mặt Trời. Tín ngưỡng của người Tây Nguyên mang màu sắc đa thần giáo. Họ cho rằng vạn vật hữu linh và linh hồn là có thật. Sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại không ở dạng vật chất mà trú ngụ trong phần xác người chết vẫn có thể tâm tình và gần gũi với người sống. Chỉ sau khi lễ bỏ mả kết thúc, thì người chết mới ra đi vĩnh viễn, không còn mối quang hệ với người sống. “Chết” đối với người Tây Nguyên có thể được tái sinh qua bảy lần rồi mới biến thành giọt sương tan vào đất ,với chu trình :đất –người-ma-đất. Và dường như cuộc sống sau khi chết đối với người Tây Nguyên cũng giống như là một cuộc sống trước lúc họ chết . Do xuất phát từ ý niệm đó mà tục “bỏ mả” của người Tây Nguyên đựoc hình thành. Người Tây Nguyên quan niệm, khi bắt đầu cuộc sống mới ở thế giới bên kia, người chết sẽ không thể sống thanh thản và đầy đủ nến thiếu lễ bỏ mả. Chính vì vậy mà Người Tây Nguyên rất xem trọng lễ bỏ mả . III.2 Ý nghĩa của lễ bỏ mả: Xét về mặt tâm lý , lễ bỏ mả là sự chính thức tiễn đưa linh hồn người quá cố về với tổ tiên, ông bà. Người Tây Nguyên quan niệm rằng : chết chính là sự bắt đầu một cuộc sống mới bên kia thế giới. Do vậy, lễ bỏ mả mang đúng nghĩa là một lễ hội. Nó có tác dụng cố kết các cộng đồng sống chung một làng lại với nhau. Lễ bỏ mã là biểu hiện tình cảm của gia đình giành cho người hóa cố. Kể từ đây, gia sẽ thoát khỏi sự quấy nhiễu của linh hồn người quá cố. Vì người Tây Nguyên cho rằng trước khi làm lễ bỏ mã linh hồn người chết vẫn tồn tại xung quanh mình, quấy phá cuộc sống của 8 gia đình. Cho nên, lễ bỏ mả là cắt đức mối quan hệ giữa gia đình và người quá cố. giúp cho những thành viên trong gia đình người quá cố quay lại cuộc bình thường. Chẳng hạn, những người góa bụa không còn xõa tóc, không còn mặc váy bẩn rách của thời kỳ tang lễ nữa. III.3 Lễ bỏ mã của các tộc người Tây Nguyên: III.3.1 Thời gian, đối tượng được làm lễ bỏ mã:  Thời gian của Lễ bỏ ma : Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình. Có thể là 1,2 năm, thậm chí nhiều năm sau, khi người thân của người chết có đủ "năng lực" sắm sửa các lễ vật. Để lễ bỏ ma (Vidhi atơu) tổ chức đầy đủ, trọn vẹn theo đúng phong tục, gia đình người chết phải mời mọi người trong palơi (làng), mọi người trong họ hàng với nhiều gà, heo, rượu thậm chí cả trâu, bò. Người Raglai tìm thanh đá kêu (patơu lit) để giữ hồn người chết, là cây vật thần gọi là Gai tuah. Cây vật thần cũng có thể làm bằng cây rựa, cây chà gạt (gơr tagac atơu). Cây rựa hay cây chà gạt khi làm vật giữ hồn người chết để phục vụ cho lễ bỏ ma đều có vai trò như một Gai tuah. Gai tuah dùng để múa ma (Tumuya atơu), đưa hồn người chết từ nhà ra mồ, giữ hồn người chết trước khi làm lễ bỏ ma. Nếu không có Gai tuah vong linh người chết sẽ không nhập về cõi âm, phải chịu kiếp khổ ải, bơ vơ không về được thế giới ông bà. Từ quan niệm tín ngưỡng này người Raglai không đặt nặng vấn đề thời gian. Tất nhiên, ở lễ tang của người Raglai có thể mỗi địa phương mỗi khác một ít, nhưng ở lễ bỏ ma (Vidhi atơu) đều giống nhau. Sau lễ bỏ ma, linh hồn người chết hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc của người sống, người chết thực sự đi đến "quê hương mới" của mình, còn người sống được "giải phóng" thực sự mọi liên hệ với người chết. Nói cách khác, lúc này người 9 chết chuyển sang trạng thái sống khác, không liên hệ gì với người thân nữa. Do vậy người Raglai không có tục thờ cũng hay làm bàn thờ người chết sau lễ bỏ ma.  Đối tượng được làm lễ bỏ mả : Trong lúc sống, dù có hung dữ hay hiền lành, thật thà hay gian ngoa hoặc sống không phải đạo làm người với dân làng, với cha mẹ, vợ chồng, anh em trong gia đình... người chết đều được làm lễ bỏ mả không phân biệt. Như vậy, có thể thấy rằng lễ bỏ mả là "cái chết được hồi sinh" và người sống được giải phóng. Đây chính là tính nhân văn độc đáo trong một lễ hội mang đậm nét truyền thống của người Raglai nói riêng và của cả cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây nguyên nói chung. Lễ bỏ ma của người Raglai tùy trường hợp và điều kiện của người bị chết mà có tục hành lễ khác nhau như chết non, chết bệnh tật, chết già nua, chết bất đắc... có thể sơ lược như sau: +Chết non: Người vừa lọt lòng mẹ đã chết thì lúc đi chôn cũng là lúc làm lễ bỏ (ma vidhi atơu) bằng vấn lá rừng, chén cơm, trứng gà . Đối với trường hợp này chỉ làm một lễ nhỏ mà không lập nhà mồ. +Con sinh ra được 10 đêm, một tháng thì cha mẹ cũng phải làm lễ bỏ mã bằng con gà, ché rượu , vấn lá rừng thay trầu cau. +Con sinh ra được từ 5 tháng đến trên dưới 1 năm, cha mẹ tổ chức lễ bỏ mả bằng heo, gà, lễ vật còn có giỏ cơm, ống thịt. Khi lập nhà mồ che mái ở trên. Lúc này cha mẹ, anh em thương nhau thì khóc tế Choqhia. Khóc tế Choqhia là một trong những điệu hát kể của người Raglai chỉ dùng trong lễ bỏ ma. Bình thường người Raglai tối kị, không sử dụng đến làn điệu này. Trong các đối tượng kể trên, người Raglai không cần sử dụng Gai tuah nào cả, vì khi chôn là làm lễ bỏ ma ngay. 10 +Đối với trẻ 1 đến 10 tuổi thì tùy điều kiện gia đình, lúc này chúng được xem như người lớn, nhưng nếu khi chết mà làm lễ bỏ ma ngay cũng không cần cây vật thần Gai tuah. Điều đặc thù là sau khi lễ bỏ mả kết thúc, mọi thứ thuộc về ma, người chết được bỏ đi không còn ý nghĩa gì với người sống. Còn đối với người Kinh thì mồ mã mãi là phần quan trọng và ràng buộc đối với người sống. Đây cũng là một nét đặc sắc riêng trong quan niệm về sinh tồn của người Tây Nguyên . Nghi thức của lễ bỏ mã: Các giai đoạn của lễ bỏ mã: Lễ Bỏ Mả của đa số các tộc người Tây Nguyên đều kéo dài trong khoảng từ 4 đến 6 ngày(có thể nhiều hơn hoặc ít hơn) tùy theo truyền thống của mỗi tộc người, có thể chia ra thành các giai đoạn sau: + Giai đoạn thứ nhất: phá bỏ nhà mả cũ, làm nhà mả mới. + Giai đoạn thứ hai: bỏ mả (hay còn gọi là bỏ ma) + Giai đoạn thứ ba:gia đình của người chết được giải phóng và nhập vào cuộc sống bình thường của dân làng  Phá bỏ nhà mả cũ, làm nhà mả mới:(gồm 2 ngày đầu hoặc trước đó) Đồng bào Tây Nguyên rất chú trọng đến việc chuẩn bị cho người chết “một cuộc sống mới” , bởi họ quan niệm cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống thực. Đa số họ vẫn giữ tục chôn chung và bỏ mả chung. Do đó một tháng trước khi tổ chức lễ bỏ mả các gia đình có người chết cùng dân làng phải bắt tay vào chuẩn bị. Họ vào rừng chọn những cây gỗ tốt về đẽo các cột kút, kơlao, chạm khắc tượng người, tượng thú, chuẩn bị rượu thịt, gạo nước cho lễ bỏ mã. Họ bắt đầu lễ bỏ mả bằng nghi lễ cầu hồn ma người chết cho dựng nhà mồ mới, người chủ lễ (tức người đại diện cho gia đình có người chết được chôn đầu tiên ở khu nhà mồ hoặc có thể là vị già làng) đọc lời cúng. Tùy mỗi tộc người khác nhau thì cách làm khác nhau và lời bài cúng khác nhau. 11 Ví dụ như: người Giarai Mthur chọn những ngày trăng sáng nhất (tuần thứ 2 của tháng) để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay ăn lễ bỏ mả. Khoảng 10_11 giờ đêm ngày 14, các gia đình có người thân phải làm lễ bỏ mả cùng cả dân làng tấp nập đi ra khu nhà mồ đã được dọn dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ. Vì thế mà họ gọi hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là ngày vào nhà mả. Trước khi cuộc vui bắt đầu, người chủ lễ đến bên ngôi nhà mồ mới sụp xuống trước bàn thờ đã bày sẵn rượu, thịt cúng và đọc bài cúng với những lời mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến ngay sau lưng rồi. Từ nay, người sống ăn cơm trắng, còn ma thì ăn cơm đỏ, ăn hoa tím, hoa đỏ của các thần…Sau đó, người chủ lễ mới bày tỏ tâm tư và nguyện vọng của những người sống: “xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương, đừng yêu con cháu nữa. Từ nay, chúng tôi sẽ không còn mang cơm, sẽ không còn mang nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn thịt gì, xin ma hãy xứ hỏi thần trăng; nếu muốn ăn cá, ăn thịt, xin ma hãy hỏi thần trên trời. Thôi từ nay, thế là hết, như lá m nang, đã lìa cành như lá m tư đã tàn úa”………… Còn người Banakodeh gọi ngày đầu tiên của lễ là ngày cuốc dọn ( anar choh cham). Sau khi đã làm thịt một con heo, người chủ lấy gan, lưỡi, tim, da bụng và cổ họng của con vật xâu thành một xâu, lấy rượu ra cho vào ống tre để đựng rượu đó ra nhà mả làm lễ cúng. Ông chủ đổ rượu vào xâu rượu cho thấm xuống đầu nấm mồ và đọc lời cúng : “hôm nay chúng tôi làm nhà mồ cho ma lần cuối cùng. Thế là hết rồi nhé, từ nay ma đừng quấy rầy gia đình tôi nữa. Theo bước người chủ dân làng đem cồng chiêng ra đánh bài chiêng ma(chiêng atau) và cùng nhau từ nhà ra nghĩa địa. Khi ông chủ cúng xong, mỗi người một tay giúp dọn dẹp khu mộ và chuẩn bị mọi thứ để ngày hôm sau dọn nhà mả mới cho ma. Những lúc nghỉ ngơi, mọi người ăn uống trò chuyện. Ngày thứ 2 ngươi Bana gọi là ngày làm nhà mả, khác với người Giarai ở trên (làm nhà mả trước khi làm lễ) , ngày này dân làng cùng gia đình những người có nguời thân chết ra nghĩa địa dựng mả mới cho người chết: thanh niên khỏe mạnh thì dựng cột, người già thì đẽo tượng, trang trí, chạm trổ… Ở giai đoạn này có tính chất rất quan trọng: báo cho hồn ma biết là những người sống chuẩn bị làm lễ bỏ mả 12 Giai đoạn bỏ mả: Đối với các tộc người làm nhà mả mới trước khi đọc bài cúng như người Giarai Mthur trên thì giai đoạn này diễn ra sau khi người chủ đọc bài cúng. Còn đối với các tộc nguời như Bana Kodeh thì giai đoạn nay bắt đầu từ ngày thứ ba. Gọi chung là ngày vào lễ nhà mả Giai đoạn này người ta đem rượu thịt đến khu nhà mả ăn uống chia tay với người quá cố . Mọi người ở lại bên ngôi nhà mả với người chết cho tới tận đêm khuya. Ngày hôm sau là ngày quan trọng nhất, ngày bỏ mả, người ta làm lễ giết trâu, đối với các làng không có cột buộc trâu bò thì chúng được dắt ra nhà rông của làng làm thịt. Khoảng trưa thì mọi người đem đầu đuôi, một xâu thịt gồm:lưỡi, tim, da bụng, cổ họng con vật ra nhà mả cúng và khóc . Trước khi ăn uống vui chơi gia đình đem đồ chia vào nhà mả mới cho người chết và khóc lần cuối vĩnh biệt người thân đã chết. Đồ chia hay đồ cho gồm các vật dụng mà người chết hay dùng, ngoài ra còn đem cả các loại cây trồng như:ngô, chuối, mít, lúa,…để người chết tiếp tục sống ở thế giới khác. Họ còn đem con gà nhỏ đặt lên mộ, để linh hồn người chết nhập vào. Trong khi gia đình chia của, khóc vĩnh biệt người chết thì gia chủ dùng thịt, rượu làm lễ cúng. Đồ dùng và nghi thức cúng tương tự như lần trước. Ví dụ lời c
Luận văn liên quan