Đề tài Lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển, hiện đại với biết bao đổi thay đang diễn ra. Chất lượng cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Chúng ta đang cố gắng tiếp cận với những cái mới, cái hiện đại và cái văn minh. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải chống lại những mặt tồn tại của chúng. Đó là sự bùng nổ dân số, bệnh hiểm nghèo, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội,. ngày càng nặng nề, sức khỏe con người ngày càng bị đe dọa trầm trọng, nhất là ở những nước đang phát triển. Chúng đe dọa cuộc sống và sức khỏe của mọi lứa tuổi,đặc biệt là thế hệ trẻ phải đương đầu chịu đựng. Trong vòng 10 năm trở lại đây, xã hội mà đối tượng chủ yếu là thanh thiếu niên đang nổi lên các hiện tượng sống thử, phá thai, các “bà mẹ” 14 – 15 tuổi, quan hệ tình dục không an toàn, đồng tính,.Điều này làm dư luận xôn xao rất nhiều. Đặc biệt, trong xã hội Việt Nam, theo ý kiến của một bộ phận người, điều này lại càng bị lên án gay gắt. Cũng có nhiều người cho rằng đó là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự bùng nổ thông tin, hay nói rộng ra là quá trình toàn cầu hóa,.Nhìn chung, dư luận hầu như chỉ nhắm vào sự việc đã rồi của những thanh thiếu niên còn “trẻ người non dạ”, kiến thức giới tính, sức khỏe sinh sản còn nhiều hạn chế. Mặt khác, do quan niệm của người Á Đông, cho đến nay, trong phạm vi xã hội nói chung, và góc độ gia đình nói riêng, chuyện giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho con trẻ còn bị né tránh. Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng đấy chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hậu quả không mong muốn như trên. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục giới tính rất quan trọng. Bởi giáo dục giới tính có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ ở lứa tuổi đang lớn và việc duy trì thế hệ mai sau, góp phần tạo ra cho xã hội một thế hệ phát triển toàn diện về thể trạng tâm lý và sinh lý. Xã hội càng phát triển, điều kiện sống càng được nâng cao, tuổi dậy thì của trẻ em càng sớm. Điều này khiến các em giảm bớt tuổi thơ ngây, sớm trở thành người lớn, dẫn đến sự chênh lệch giữa phát triển thể xác với phát triển sự khôn ngoan. Có nghĩa là tinh thần các em chưa đủ khôn ngoan để đối phó với những cám dỗ, cạm bẫy của thể xác. Vì vậy, sự thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản, về giới tính một cách đúng đắn dễ dẫn đến những hành vi “lầm đường lạc lối”, và để lại hậu quả không nhỏ. Vấn đề giáo dục giới tính cũng được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu, đặc biệt được thể hiện trong chỉ thị 176a của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, về vấn đề biên soạn nội dung giảng dạy giáo dục giới tính trong học đường từ năm 1984 . Từ đó cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các đề tài giải quyết vấn đề giáo dục giới tính dưới sự chỉ đạo của nhà nước, của Bộ Giáo dục – Đào tạo, của Viện khoa học giáo dục, với sự tham gia của các nhà khoa học, các sở giáo dục và nhiều ngành có liên quan. Cho đến nay, vấn đề bảo vệ sức khỏe sinh sản cho thế hệ trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh đã được quan tâm hơn. Hình thức giúp vấn đề này trở nên phổ biến và gần gũi với thế hệ trẻ, hiệu quả nhất là thông qua giáo dục trong trường phổ thông. Tuy nhiên, giáo dục giới tính cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường vẫn còn nhiều khó khăn, cần sự phối hợp của nhiều ban ngành, bộ phận tư vấn, chuyên môn có liên quan. Trong các bộ môn được giảng dạy ở trường Trung học cơ sở, Sinh học là một bộ môn tương đối phù hợp để giáo viên lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh, đặc biệt là chương trình Sinh học 8, khi các em được tìm hiểu các kiến thức về giải phẫu sinh lý người. Học sinh sẽ có điều kiện khám phá các hoạt động sinh lý của cơ thể, giải thích một số hiện tượng tâm sinh lý lứa tuổi, biết cách vệ sinh thân thể, giữ gìn sức khỏe bản thân,. Chính vì thế,từ nhận thức thực tế, tôi cảm thấy bộ môn sinh học 8 có nhiều thuận lợi để đề cập đến vấn đề này. Do vậy, tôi xin mạnh dạn trình bày ý tưởng thông qua đề tài: “ Lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trong giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường Trung học cơ sở”.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2741 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lồng ghép giáo dục giới tính trong môn sinh học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỒNG GHÉP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC 8 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển, hiện đại với biết bao đổi thay đang diễn ra. Chất lượng cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Chúng ta đang cố gắng tiếp cận với những cái mới, cái hiện đại và cái văn minh. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải chống lại những mặt tồn tại của chúng. Đó là sự bùng nổ dân số, bệnh hiểm nghèo, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội,... ngày càng nặng nề, sức khỏe con người ngày càng bị đe dọa trầm trọng, nhất là ở những nước đang phát triển. Chúng đe dọa cuộc sống và sức khỏe của mọi lứa tuổi,đặc biệt là thế hệ trẻ phải đương đầu chịu đựng. Trong vòng 10 năm trở lại đây, xã hội mà đối tượng chủ yếu là thanh thiếu niên đang nổi lên các hiện tượng sống thử, phá thai, các “bà mẹ” 14 – 15 tuổi, quan hệ tình dục không an toàn, đồng tính,....Điều này làm dư luận xôn xao rất nhiều. Đặc biệt, trong xã hội Việt Nam, theo ý kiến của một bộ phận người, điều này lại càng bị lên án gay gắt. Cũng có nhiều người cho rằng đó là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự bùng nổ thông tin, hay nói rộng ra là quá trình toàn cầu hóa,....Nhìn chung, dư luận hầu như chỉ nhắm vào sự việc đã rồi của những thanh thiếu niên còn “trẻ người non dạ”, kiến thức giới tính, sức khỏe sinh sản còn nhiều hạn chế. Mặt khác, do quan niệm của người Á Đông, cho đến nay, trong phạm vi xã hội nói chung, và góc độ gia đình nói riêng, chuyện giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho con trẻ còn bị né tránh. Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng đấy chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hậu quả không mong muốn như trên. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục giới tính rất quan trọng. Bởi giáo dục giới tính có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ ở lứa tuổi đang lớn và việc duy trì thế hệ mai sau, góp phần tạo ra cho xã hội một thế hệ phát triển toàn diện về thể trạng tâm lý và sinh lý. Xã hội càng phát triển, điều kiện sống càng được nâng cao, tuổi dậy thì của trẻ em càng sớm. Điều này khiến các em giảm bớt tuổi thơ ngây, sớm trở thành người lớn, dẫn đến sự chênh lệch giữa phát triển thể xác với phát triển sự khôn ngoan. Có nghĩa là tinh thần các em chưa đủ khôn ngoan để đối phó với những cám dỗ, cạm bẫy của thể xác. Vì vậy, sự thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản, về giới tính một cách đúng đắn dễ dẫn đến những hành vi “lầm đường lạc lối”, và để lại hậu quả không nhỏ. Vấn đề giáo dục giới tính cũng được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu, đặc biệt được thể hiện trong chỉ thị 176a của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, về vấn đề biên soạn nội dung giảng dạy giáo dục giới tính trong học đường từ năm 1984 . Từ đó cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các đề tài giải quyết vấn đề giáo dục giới tính dưới sự chỉ đạo của nhà nước, của Bộ Giáo dục – Đào tạo, của Viện khoa học giáo dục, với sự tham gia của các nhà khoa học, các sở giáo dục và nhiều ngành có liên quan. Cho đến nay, vấn đề bảo vệ sức khỏe sinh sản cho thế hệ trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh đã được quan tâm hơn. Hình thức giúp vấn đề này trở nên phổ biến và gần gũi với thế hệ trẻ, hiệu quả nhất là thông qua giáo dục trong trường phổ thông. Tuy nhiên, giáo dục giới tính cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường vẫn còn nhiều khó khăn, cần sự phối hợp của nhiều ban ngành, bộ phận tư vấn, chuyên môn có liên quan. Trong các bộ môn được giảng dạy ở trường Trung học cơ sở, Sinh học là một bộ môn tương đối phù hợp để giáo viên lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh, đặc biệt là chương trình Sinh học 8, khi các em được tìm hiểu các kiến thức về giải phẫu sinh lý người. Học sinh sẽ có điều kiện khám phá các hoạt động sinh lý của cơ thể, giải thích một số hiện tượng tâm sinh lý lứa tuổi, biết cách vệ sinh thân thể, giữ gìn sức khỏe bản thân,.... Chính vì thế,từ nhận thức thực tế, tôi cảm thấy bộ môn sinh học 8 có nhiều thuận lợi để đề cập đến vấn đề này. Do vậy, tôi xin mạnh dạn trình bày ý tưởng thông qua đề tài: “ Lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trong giảng dạy môn Sinh học 8 ở trường Trung học cơ sở”. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Thuận lợi Giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh đang là một vấn đề được quan tâm hiện nay. Đây cũng là một nhu cầu cần thiết của lứa tuổi vị thành niên. Đối tượng chủ yếu của kết quả ứng dụng đề tài này là các em học sinh trong độ tuổi từ 14 đến 16. Ở độ tuổi này, nhận thức của các em đã có sự thay đổi so với trước đây. Các em bắt đầu có nhu cầu hiểu biết, nhận thức chọn lọc về các vấn đề trong cuộc sống, đặc biệt là về tâm sinh lý. Đây chính là cơ sở tốt để giáo dục cho các em nhận thức về việc chăm sóc sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng. Nhà trường là nơi thuận lợi để tiến hành giáo dục cho thanh thiếu niên thông qua các môn học, các hoạt động chung. Ở đây, ngoài thầy cô giáo, còn có các tổ chức khác như Hội Phụ huynh học sinh, Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên, Hội chữ thập đỏ,… cùng phối hợp giáo dục học sinh. Ngoài ra, hiện nay các thông tin về bảo vệ sức khỏe, sức khỏe sinh sản đã được phổ biến hơn, được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, cập nhật: sách báo, tờ rơi, tranh ảnh, phim truyện, internet,…. Khó khăn Giáo dục sức khỏe, đặc biệt là giáo dục giới tính hiện nay được đề cập khá nhiều trên mọi phương tiện thông tin. Việc chọn lọc luồng thông tin tích cực không phải dễ dàng đối với đối tượng thanh thiếu niên. Theo suy nghĩ của người phương Đông, vấn đề giới tính còn khá nhạy cảm, đòi hỏi phải cẩn trọng khi đề cập đến vấn đề tế nhị này. Chuyên viên thực hiện tư vấn tâm lý, tư vấn sức khỏe sinh sản còn chưa nhiều, đặc biệt ở địa phương. Giáo viên có chuyên môn nhưng khả năng diễn giảng về bảo vệ sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng còn hạn chế, do không chuyên. Thời lượng lồng ghép hạn chế, do đây không phải là nội dung chính trong môn học. Thực hiện ứng dụng rộng đề tài này đòi hỏi sự phối hợp, giúp sức của nhiều tổ chức. Số liệu thống kê q Một số số liệu đáng lưu ý: Dân số thế giới hiện nay khoảng trên 6 tỷ người, trong đó trẻ em dưới 15 tuổi chiếm khoảng 37%. Theo Vnexpress, 2009, thì “Mỗi năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu ca nạo phá thai, trong đó 500 ngàn ca ở tuổi vị thành niên, 25% số ca chưa lập gia đình và 20% ca nạo phá thai khi còn ở tuổi vị thành niên.”. Nếu so với khoảng 46 triệu ca nạo phá thai trên tòan thế giới thì chúng ta chiếm 3%. (Theo Vũ Hoàng Linh, Kyoto Institute Of Technology, 2009) Đầu những năm 2000 số trẻ vị thành niên đến khoa nạo phá thai ở Bệnh viện Từ Dũ, thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 5%, thì từ năm 2006-2007 đến nay con số này đã tăng lên 10%. Mỗi năm ở Bệnh viện Từ Dũ có xấp xỉ 30.000 ca nạo phá thai, trong số đó số trẻ vị thành niên chiếm khoảng gần 3.000 ca. Các em ở lứa tuổi từ 17 và nhỏ nhất chỉ mới qua tuổi 11. Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, sự lây lan các bệnh qua đường tình dục và đặc biệt là HIV/AIDS nhanh chóng đến mức báo động. Riêng trong các trường hợp nhiễm HIV thì 50% là ở lứa tuổi thanh niên, 14% ở lứa tuổi dưới 15 tuổi, và ngày càng có xu hướng trẻ hoá. Tỷ lệ trẻ vị thành niên nạo phá thai ở Từ Dũ là 50% ca người Thành phố Hồ Chí Minh và 50% số ca từ các tỉnh khác. (Số liệu từ Tạp chí y học, 11/2007) q Thực trạng trước khi thực hiện đề tài, tôi đã tìm hiểu trao đổi với một số học sinh về thái độ đối với vấn đề giáo dục giới tính. Kết quả khảo sát học sinh khối 8 (290HS) như sau : Thái độ của học sinh khi đề cập đến vấn đề giới tính Tỉ lệ % Rất hứng thú 81.2 Hứng thú 11.8 Còn sự e ngại 7 Và kết quả khảo sát thái độ của học sinh từ lớp 8/1 à lớp 8/4 đối với việc học môn Sinh học 8 như sau: NỘI DUNG ĐỀ TÀI Cơ sở lý luận 1.1 Giáo dục giới tính là gì? 1.1.1 Giới tính: chỉ giống đực hay cái, phái nam hay nữ của những sinh vật, trong đó có loài người. Giới tính là biểu hiện tự nhiên và tất yếu của đời sống. Nó hiện diện trong mọi hoạt động của mỗi người trong sinh hoạt hằng ngày, dù ta có nhận biết nó hay không. ( theo Bác sĩ Nguyễn Văn Đích- chương trình Vấn đáp sống khỏe – Tư vấn Y khoa online) 1.1.2 Giáo dục giới tính là gì? Là chương trình giáo dục đề cập tới các vấn đề giới tính nhằm giúp học sinh có những hiểu biết về giới tính, trên cơ sở đó hình thành thái độ và hành vi ứng xử giới tính đúng đắn. Theo Tiến sĩ Tâm lý Huỳnh Văn Sơn (Khoa Tâm lý, trường ĐHSP TP. HCM), giáo dục giới tính hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội dung như: Giáo dục việc phân biệt giới tính của mình với người khác, giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân, giáo dục về giới tính tuổi dậy thì, giáo dục về tình bạn - tình yêu, tâm lý - tâm sinh lý hôn nhân,…. Còn theo PGS.TS Bùi Ngọc Oánh -Trung tâm tư vấn tình yêu và giáo dục hôn nhân gia đình, thực tế, giáo dục giới tính là sự giáo dục toàn diện vào nhân cách con người, đó là quá trình tác động vào con người, làm cho họ có nhận thức và thái độ đúng đắn, đầy đủ về giới tính và quan hệ giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới của họ, có quan hệ tốt và phù hợp với người khác giới, chuẩn bị cho họ biết cách tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển. Tuy là mỗi người có một quan điểm khác nhau về giáo dục giới tính nhưng chung quy, các khía cạnh chính mà chúng ta cần quan tâm khi đề cập đến việc giáo dục giới tính là: sự hiểu biết về những kiến thức cơ bản đến sự phát triển tâm sinh lí của con người, các vấn đề liên quan đến đời sống tình dục, việc hình thành một nhận thức đúng đắn, thái độ tính cực đối với vấn đề tình dục. Về đối tượng thì chủ yếu là cần giáo dục giới tính cho thế hệ đang lớn lên, nội dung phù hợp với bản sắc văn hoá của từng dân tộc, địa phương nhưng đảm báo tính giáo dục một cách khoa học. Sự cần thiết của giáo dục giới tính cho học sinh ở lứa tuổi vị thành niên Giáo dục giới tính cần thiết cho những thiếu niên ở tuối dậy thì, khi họ bắt đầu vào trung học. Giáo dục nhắm mục đích giúp thanh thiếu niên hiểu về cơ thể, sinh lý liên quan đến tình dục, và chỉ cho họ biết cách giữ gìn sức khoẻ. Bác sĩ Hiroshi Nakajima – Tổng thư ký của tổ chức sức khỏe thế giới(OMS) đã phát biểu rằng: “Chưa bao giờ tuổi trẻ phải đối phó với những hiểm họa ghê gớm như ngày nay.” Cho nên chẳng những chúng ta phải vươn lên để giải quyết những bệnh tật “cổ điển” mà còn phải đề phòng các loại bệnh do thời đại văn minh gây ra. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi chuyển tiếp từ một em bé sang người trưởng thành, dễ mắc nhiều bệnh tật mà các bậc cha mẹ và các tổ chức phải quan tâm, điều này làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể lực, kết quả học tập và rèn luyên. Vì vậy các em phải biết cách bảo vệ sức khỏe để khi trưởng thành có thể đảm nhận những công việc mà xã hội giao cho. Tuổi vị thành niên là thời kì phức tạp nhất trong toàn bộ quá trình phát triển và trưởng thành của một con người, thời kì này con người đi từ sự hình thành phát triển đến hoàn thiện về giới tính và xã hội. Do những quy luật phát triển của con người và xã hội, sự trưởng thành về giới tính thường diễn ra ở độ tuổi 13 đến 16, chủ yếu ở học sinh trung học cơ sở, đánh dấu bằng tuổi dậy thì.Trong thực tế, các biến động tâm sinh lý thường bắt đầu xảy ra mạnh ở lứa tuổi học sinh lớp 8. Giai đoạn này, nhu cầu giới tính cũng bắt đầu xuất hiện. Các em chưa chuẩn bị đầy đủ nhận thức, kĩ năng, bản lĩnh nhưng đã phải đứng trước bao lo lắng, băn khoăn trước những thách thức trong cuộc sống, đặc biệt trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Vì vậy, các em cần được giúp đỡ để nhận biết,chủ động giải quyết những tình huống thường gặp trong cuộc sống. Ngoài ra, do quan niệm hẹp về giới tính nên đã từng có quan niệm phiến diện cho rằng, giáo dục giới tính chỉ là việc khai sáng những kiến thức về sinh lý và tình dục, nên nó bị phản đối và có quan niệm cũng cho rằng: tuyên truyền giáo dục giới tính là "vẽ đường cho hươu chạy". Nhưng thực tế cuộc sống đã cho thấy, vì thanh thiếu niên thiếu hiểu biết và không được giáo dục để có hành vi đúng, nên mới dẫn đến những quan hệ thiếu trách nhiệm, thiếu văn hoá và đạo đức trong quan hệ giới tính. Đã đến lúc chúng ta không thể né tránh, mà phải chủ động trong việc giáo dục giới tính để con em chúng ta phát triển đúng hướng và toàn diện. Mỗi đứa trẻ sẽ phải trở thành một người đàn ông hay đàn bà, biết cư xử đúng đắn, có trách nhiệm với giới khác. 1.3 Tại sao lại chọn môn Sinh học, đặc biệt là môn Sinh học 8 để lồng ghép giáo dục giới tính? Khi được hỏi ý kiến về giáo dục giới tính đối với thiếu niên nam nữ tại Việt Nam, giáo sư Quang Ngọc, của thế hệ trên 60, thuộc đại học sư phạm Hà Nội, có con cháu đầy đàn, giải thích: “Ở trường phổ thông thì các cháu bắt đầu được học, nhưng nói chung cũng còn xa lạ và ngại ngần, tức là nó phải quen quen dần. Ở Việt Nam môn sinh học cũng học về giới tính , điều này rất là nên vì xã hội bây giờ phát triển. Lượng thông tin bây giờ rất là nhiều, nên nếu không giáo dục thì chuyện này cũng rất nguy hiểm. Điều này rất quan trọng.” (Báo Dân trí – Trung ương hội Khuyến học Việt Nam). Thực ra, vấn đề này có thể thực hiện lồng ghép hay tích hợp ở một số môn học khác như Đạo đức, Giáo dục công dân, công nghệ, Thể dục, thậm chí là Văn học,….Tuy nhiên, đề cập rõ nhất, gần gũi nhất với học sinh, theo tôi, chỉ có môn Sinh học ở trường phổ thông. Bởi thông qua học tập môn Sinh học, đặc biệt là Sinh học 8, các em mới có điều kiện được tìm hiểu về chính cơ thể mình, giải thích được một số hiện tượng tượng tâm sinh lý của con người và các vấn đề có liên quan trong đời sống xã hội. Đồng thời chương trình Sinh học 8 mới tập trung nghiên cứu về giải phẫu sinh lý người, sách giáo khoa có nhiều kênh hình đẹp, có thể liên hệ thực tế nhiều, nên đây là một môn học có nhều ưu điểm để thực hiện lồng ghép giáo dục giới tính. Mặt khác, giáo viên Sinh học cũng được trang bị một số kiến thức chuyên môn, sẽ thuận lợi hơn trong việc cung cấp thông tin cho học sinh. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1 Giáo dục giới tính trong nhà trường phổ thông Trong xã hội hiện tại chất lượng cuộc sống của gia đình và xã hội ngày càng được cải thiện, thì ở trẻ em sức khỏe thể chất cũng phát triển nhanh so với các bậc cha anh cùng thời kỳ. Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin, với phương tiện nghe nhìn hiện đại, thông tin hàng ngày, hàng giờ tác động đến trẻ em. Những phim ảnh về cuộc sống gia đình, về tình yêu ảnh hưởng rất nhanh đến trẻ em. Việc thiếu kiến thức giới tính và thiếu các hoạt động giải trí lành mạnh, có thể dẫn đến những hành vi lệch lạc ở trẻ em về giới tính và tình dục, đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc, cần phải uốn nắn kịp thời. Do đó, việc đưa việc đưa chương trình giới tình vào phổ thông là việc làm có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhiều nước trên thế giới, giáo dục giới tính đã trở thành một môn học được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ trông với các tên gọi khác nhau: thí dụ ở Thái Lan gọi là Giáo dục đời sống gia đình, Thuỵ Điển gọi là Vệ sinh tình dục, ở Nam Tư (cũ) gọi là Giáo dục mối quan hệ nhân văn và có trách nhiệm giữa nam và nữ. Tại Malaysia, Bộ giáo dục cũng đã đưa vấn đề này vào trường học từ năm 1967, 1968. Và hiện nay họ đã có cả một bề dày về việc đào tạo cán bộ, các giáo viên chuyên sâu để giảng dạy về vấn đề này. Sách giáo khoa cũng được biên soạn theo từng cấp với những hình vẽ minh họa rất phù hợp và rất đẹp, tạo điều kiện không chỉ cho giáo viên giảng dạy trong trường mà có thể cung cấp đến cả phụ huynh để có sự phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa nhà trường và gia đình. Chương trình giáo dục giới tính giúp cho học sinh ở tuổi vị thành niên giải đáp được những thắc mắc trong sự phát triển cơ thể của chính mình, chuẩn bị cho thanh thiếu niên những hiểu biết để vững chắc vào đời, biết tôn trọng, có trách nhiệm trong quan hệ với bạn khác giới và biết tự bảo vệ sức khoẻ sinh sản. 2.2 Bản chất của giáo dục giới tính Trong thời gian trước đây rất dài việc Giáo dục giới tính (GDGT) hầu như bị né tránh, ít được chú trọng và nghiên cứu và tổ chức giáo dục một cách hệ thống, có căn cứ khoa học. Tuy nhiên trước những thực trạng trên thì việc GDGT trong giai đoạn hiện nay lại trở thành một trong những vấn đề rất đáng quan tâm gia đình – nhà trường và xã hội. Một trong những điểm nổi bật mà chúng ta hiện nay nhìn thấy rõ nhất đó là sự phát triển không cân đối và hài hoà giữa sự trưởng thành về mặt cơ thể của thế hệ đang lớn với sự trưởng thành về mặt tâm lý của họ. - GDGT chính là sự hình thành cho con người sự hiểu biết cơ bản về những đặc điểm, quy luật sự phát triển tâm sinh lý của con người. Hình thành cho họ những tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến những lĩnh vực riêng tư, thầm kín nhất của con người, hình thành những quan hệ đao đức lành mạnh giữa nam và nữ. - GDGT là một bộ phận quan trọng của giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện - GDGT nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những hiểu biết cần thiết về giới và giới tính, qua đó hình thành nên những phẩm chất giới tính của giới mình, từ đó tạo nên sự thuận trong quan hệ khác giới trong hoạt động và trong đời sống xã hội. 2.3 Nội dung của Giáo dục giới tính cho học sinh Giáo dục giới tính ở trường trung học cơ sở có các nội dung sau đây: - Dạy cho học sinh kiến thức về quá trình phát triển của con người: + Kiến thức về giải phẫu sinh lý người, cấu tạo, chức năng của các cơ quan sinh dục nam, nữ. + Các giai đoạn phát triển về thể chất của con người, đặc biệt là “tuổi dậy thì”. + Khả năng sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. - Kiến thức và hành vi về các mối quan hệ xã hội: + Quan hệ gia đình. + Quan hệ xã hội. + Tình yêu nam nữ, hôn nhân, gia đình…. - Kĩ năng xác định các giá trị xã hội: lý tưởng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, phát triển nâng cao chất lượng nòi giống, dân tộc,…. - Hành vi văn hoá tình dục, sức khoẻ tình dục, tránh nạo phá thai. - Phòng tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/ AIDS. - Thái độ của xã hội về giới tính, tình dục. ………….. Trong thực tế, những kiến thức này học sinh được cung cấp, tìm hiểu chủ yếu thông qua môn Sinh học, đặc biệt là Sinh học 8. Bởi chương trình Sinh học 8 giúp các em nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo, chức năng sinh lý của cơ thể người, giải thích các hoạt động tâm-sinh lý của con người. Khi giảng dạy, giáo viên thuận lợi hơn trong việc lồng ghép giáo dục, giải thích các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi cho các em, giúp các em nhận biết đặc điểm giới tính. Chẳng hạn trong môn Sinh học 8: + Khi tìm hiểu về cơ, xương, học sinh biết được đặc điểm giới hạn phát triển của cơ thể ( nữ từ 12 – 21 tuổi, nam từ 14 – 25 tuổi). Từ đó các em có hướng rèn luyện, dinh dưỡng phù hợp, giúp cơ thể phát triển cân đối, hệ xương phát triển đến giới hạn tối đa, nâng cao tầm vóc. Hoặc các em có thể giải thích được vì sao ở lớp nhỏ ( tiểu học cho đến lớp 6, lớp 7) các bạn nữ thường lớn hơn các bạn nam. Nhưng đến lớp 8, lớp 9, các bạn nam bỗng cao nhanh hơn hẳn, và thường không cân đối, cao nhanh nhưng gầy, do cơ thể tích luỹ chủ yếu cho hệ xương phát triển. + Hoặc khi tìm hiểu về hoạt động nội tiết, cơ quan sinh sản, các đặc điểm sinh dục thứ cấp,…học sinh có thể phần nào giải đáp những thắc mắc về cơ thể mình, như: Đến tuổi dậy thì, tại sao các bạn nữ cơ thể lại thay đổi, nở nang, ra dáng thiếu nữ? Còn các bạn nam lại lớn chậm hơn các bạn nữ cùng tuổi? Rồi tại sao các bạn nam lại thay đổi giọng nói, mà ta vẫn hay gọi là “vỡ giọng”, và đến khi nào thì hết vỡ giọng?.... Và cả những thắc mắc tâm lý như tại sao lại cảm thấy ngượng ngùng trước bạn khác phái, tại sao lại cảm thấy hồi hộp, đỏ mặt, bối rối trước một bạn nào đó, có hay không tình bạn chân thành giữa một bạn nam và một bạn nữ,….. Rất nhiều những câu hỏi mà các em mong muốn được giải đáp, có những điều rất ngây ngô, dễ thương nhưng cũng đáng để thầy cô, cha mẹ quan tâm. - Các em còn có thể được giải thích tại sao chỉ nên có tình bạn trong sáng ở tuổi đi học, tác hại của việc thiếu hiếu biết