Đề tài Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại

Các hoạt động XTTM ngày càng phát triển với nhiều hình thức khác nhau, với những quy mô khác nhau kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Với mỗi một thương nhân, yếu tố lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu nên trong nhiều trường hợp, các thương nhân đã vì lợi ích trước mắt mà kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, quảng cáo sai sự thật, khuyến mại hàng giả, kém chuẩn,.làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng (NTD). Thị trường kinh doanh càng sôi động thì các doanh nghiệp càng cố gắng tạo ra nhiều hình thức thúc đẩy kinh doanh hơn và cũng tận dụng triệt để ưu thế của KM và QCTM. Bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bản thân các hoạt động KM và QCTM là những hoạt động mang tính chất mở, dễ bị lạm dụng để thực hiện các hành vi bất chính. Cũng xuất phát từ hình thức tổ chức của các hoạt động này khá đa dạng, khó kiểm soát và thẩm định chất lượng nên số lượng các vụ việc vi phạm xảy ra khá nhiều trong thực tế. Quá trình các TN thực hiện các hoạt động đó đã tiềm ẩn những rủi ro cho lợi ích khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện những nạn nhân của các hoạt động trên. Lý do này xuất phát chủ yếu từ cơ chế vận hành nền thị trường tự do hoạt động trong kinh doanh của nước ta. Những quy định về KM và QCTM không những bảo vệ quyền lợi NTD mà còn góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh. 2. Xuất phát từ tính tất yếu được bảo vệ quyền lợi của NTD bởi: NTD là nhân tố chủ yếu tạo ra thị trường của TN và quyền lợi của họ luôn cần được bảo vệ. Trong kinh doanh, TN với những ưu thế về vốn, chuyên môn, họ có thể có nhiều cách thức khác nhau để bảo vệ quyền lợi cho mình còn NTD thì khả năng tự bảo vệ mình hạn chế hơn nhiều.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2496 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI VÀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI Một số khái niệm chung: Hoạt động khuyến mại: * Khái niệm: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định” (Đ88.1 LTM) Từ nay cách trình bày văn bản luật này được đọc là: Khoản 1 điều 88 Luật Thương Mại 2005 . * Đặc điểm của khuyến mại: - Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân - Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại: dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. - Mục đích của hoạt động này: xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Đây chính là điểm để phân biệt hình thức này với các hình thức xúc tiến thương mại khác. * Các hình thức khuyến mại: - Hàng mẫu - Quà tặng - Giảm giá - Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi. - Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng. 2. Hoạt động quảng cáo thương mại: Trong đời sống hàng ngày chúng ta được tiếp xúc rất nhiều với các hoạt động “quảng cáo”, được hiểu đơn giản là thông báo cho nhau biết về một thông tin nào đó. Theo Điều 4 Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 thì Quảng cáo (advertising) chính là “giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm có mục đích sinh lời và không có mục đích sinh lời”. Quảng cáo thương mại (commerce advertisement) chính là một bộ phận của quảng cáo nói chung, được Luật Thương Mại 2005 định nghĩa như sau: “là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình” (Đ102 LTM). Đặc điểm của quảng cáo thương mại: - Chủ thể: Thương nhân, thực hiện QCTM để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình hay thực hiện dịch vụ QCTM cho thương nhân khác theo hợp đồng QC để kiếm lợi nhuận. Từ đặc điểm này chúng ta có thể phân biệt với những hoạt động thông thường như cổ động, thông tin của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế - chính trị và xã hội để tuyên truyền đường lối, chính sách…Bên cạnh đó, chủ thể thực hiện các hoạt động trên không nhất thiết phải là thương nhân như chủ thể của hợp đồng thương mại thực hiện QCTM. - Tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện QC hay thuê dịch vụ QC của thương nhân khác thông qua hợp đồng dịch vụ. - Cách xúc tiến thương mại: Trong hoạt động QCTM, thương nhân sử dụng các sản phẩm và phương tiện QCTM để thông tin về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng, bao gồm: hình ảnh, hành động, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng…để biểu thị nội dung QC. Đặc điểm này cho phép phân biệt QCTM với các hình thức khác như: trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hội chợ triển lãm… - Mục đích: giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại (XTTM), đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và lợi nhuận của thương nhân, từ đó tạo ra sự hiểu biết cho khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình, lôi kéo khách hàng, công ty và dịch vụ khác về phía mình. II. Lý do đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại: 1. Các hoạt động XTTM ngày càng phát triển với nhiều hình thức khác nhau, với những quy mô khác nhau kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Với mỗi một thương nhân, yếu tố lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu nên trong nhiều trường hợp, các thương nhân đã vì lợi ích trước mắt mà kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, quảng cáo sai sự thật, khuyến mại hàng giả, kém chuẩn,..làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng (NTD). Thị trường kinh doanh càng sôi động thì các doanh nghiệp càng cố gắng tạo ra nhiều hình thức thúc đẩy kinh doanh hơn và cũng tận dụng triệt để ưu thế của KM và QCTM. Bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bản thân các hoạt động KM và QCTM là những hoạt động mang tính chất mở, dễ bị lạm dụng để thực hiện các hành vi bất chính. Cũng xuất phát từ hình thức tổ chức của các hoạt động này khá đa dạng, khó kiểm soát và thẩm định chất lượng nên số lượng các vụ việc vi phạm xảy ra khá nhiều trong thực tế. Quá trình các TN thực hiện các hoạt động đó đã tiềm ẩn những rủi ro cho lợi ích khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện những nạn nhân của các hoạt động trên. Lý do này xuất phát chủ yếu từ cơ chế vận hành nền thị trường tự do hoạt động trong kinh doanh của nước ta. Những quy định về KM và QCTM không những bảo vệ quyền lợi NTD mà còn góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh. 2. Xuất phát từ tính tất yếu được bảo vệ quyền lợi của NTD bởi: NTD là nhân tố chủ yếu tạo ra thị trường của TN và quyền lợi của họ luôn cần được bảo vệ. Trong kinh doanh, TN với những ưu thế về vốn, chuyên môn,…họ có thể có nhiều cách thức khác nhau để bảo vệ quyền lợi cho mình còn NTD thì khả năng tự bảo vệ mình hạn chế hơn nhiều. 3. Xuất phát từ ý thức tuân thủ Pháp luật không cao của TN và người tiêu dùng. Trong khi thương nhân luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận và thực hiện các hành động ngoài tầm pháp luật thì NTD lại mặc nhiên chấp nhận các hành vi đó của thương nhân nếu chúng chưa gây thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân mình. Với vai trò của mình, Nhà nước cần thực hiện triệt để hơn nữa hoạt động xây dựng luật, quản lý và tuyên truyền pháp luật của mình để bảo vệ quyền lợi NTD cũng chính là bảo vệ quyền lợi của NN, của các tổ chức xã hội khác. Phần II BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG THỂ HIỆN QUA CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KM VÀ QCTM Phần này có 2 nội dung: Bảo vệ quyền lợi NTD thể hiện qua các quy định PL về KM và QCTM dưới góc độ Luật Thương Mại (bao gồm LTM 2005 và các văn bản khác có liên quan như: Pháp lệnh quảng cáo 2001, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD,..). Phần này sẽ có thêm sự đề cập và so sánh với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dưới góc độ Luật cạnh tranh 2004. Hoàn thiện một số quy định Pháp Luật về KM và QCTM hiện nay để nâng cao việc bảo vệ quyền lợi NTD. Bảo vệ quyền lợi NTD dùng thông qua các quy định về KM và QCTM dưới góc độ Luật Thương Mại: Thông qua các quy định về Khuyến Mại: Đặc trưng của hoạt động khuyến mại thương mại là thương nhân dành cho khách hàng những lợi ích nhất định để tác động tới thái độ và hành vi mua bán của khách hàng để lôi kéo họ mua hàng hoá của mình hoặc sử dụng dịch vụ của mình hoặc bán hàng hoá cho mình. Các hình thức khuyến mại được quy định tại Đ92 LTM và từ điều 7 đến điều 13 - Nghị định số 37/2006/NĐ - CP ngày 04/04/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để khuyến mại nhưng khi thực hiện phải được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận. Với mỗi hình thức khuyến mại, pháp luật lại có những quy định riêng. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, LTM 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ - CP đã quy định về hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại; về hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại; quyền và nghĩa vụ pháp lý của thương nhân thực hiện khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; về nguyên tắc thực hiện khuyến mại. Tuy nhiên, những quy định này chưa thực sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích của khách hàng. Trong thực tế, khách hàng luôn là người phải chịu thiệt thòi do những hành vi gian lận trong khuyến mại hoặc do các sai sót kỹ thuật trong in ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất mà khách hàng được hưởng trong đợt khuyến mại. Ví dụ: Một khách hàng của công ty sữa Hanoimilk đã mua sản phẩm sữa IZZI trong đợt khuyến mại từ 15-04 đến 15-08-2005 với một thẻ cào có thông tin trúng thưởng 30.000.000 đồng (sau khi cào phần nhũ bạc). Khi liên hệ với Công ty để nhận giải thưởng, khách hàng nhận được trả lời: "phiếu cào đó không hợp lệ ". Sau khi sự việc xảy ra, Công ty TNHH Sáng tạo (đơn vị thực hiện in ấn toàn bộ thẻ cào của đợt khuyến mại theo hợp đồng đã ký với Hanoimilk) đã thừa nhận lỗi sai sót kĩ thuật. Nhưng lợi ích mà khách hàng nhận được chỉ là lời xin lỗi của Hanoimilk, bởi vì không tìm thấy quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi của họ trong trường hợp này Xem Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, TS. Nguyễn Thị Dung, NXB. Chính trị Quốc Gia, 2007, trang 113. . Hay trong các chương trình khuyến mại mang tính may rủi, thì việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là việc rất khó bởi lẽ: LTM 2005 chỉ quy định thương nhân có nghĩa vụ "thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng" (Đ6.3 LTM). Chỉ với quy định này thì việc kiểm soát tính trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại bằng hình thức này là vô cùng khó khăn. Ví dụ như trong chương trình khuyến mại "bật nắp chai trúng thưởng" với cơ cấu 200.000 giải thưởng trong đó có 06 xe ô tô BMW của một công ty bia, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 06 nắp chai in hình xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại? Xem Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, SĐD, trang 115. . Như vậy, quyền lợi của người tiêu dùng là không thể đảm bảo trong khi hàng hoá vẫn được tiêu thụ trong thời gian khuyến mại. Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại, LTM 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ - CP đã có những quy định hợp lý. Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 16 và khoản 3 điều 17 của Nghị định số 37/2006/NĐ - CP thì cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền khi nhận hồ sơ đăng kí thực hiện chương trình khuyến mại phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng kí thực hiện chương trình khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lí do. Nhưng luật lại không quy định các điều kiện để thương nhân có được sự xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền và trong trường hợp bị từ chối xác nhận thì luật cũng không quy định những quyền của thương nhân trong trường hợp này. Quy định như trên đã biến thủ tục "đăng kí" thành thủ tục "xin phép". Như vậy sẽ hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Theo Điều 17 Nghị định 175/2004/NĐ - CP ngày 10/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại thì mức phạt cao nhất đối với hành vi vi phạm quy định về khuyến mại là 70.000.000 VNĐ. Mức phạt như vậy dường như còn thấp nên sẽ không đủ sức răn đe. Do đó, mà tình trạng vi phạm quy định về khuyến mại còn rất phổ biến. Ví dụ: Bà Lê Thị Ngọc, ngụ ở Q.8 mua một chiếc chảo không dính ở một siêu thị điện máy tại quận 1 với mức giảm giá 20%. Sau đó, so sánh với giá không giảm tại siêu thị Co-opmart, bà nhận ra mức giá ban đầu của siêu thị điện máy cao hơn khỏang gần 10%. Như vậy xét về tổng giá trị, bà đã mua được hàng rẻ hơn siêu thị, nhưng không đúng với cam kết “giảm giá 20%”, bởi lẽ cơ sở của việc giảm giá - tức giá thị trường, đã bị nâng lên cao hơn rất nhiều. Hay như trong cuốn cẩm nang mua sắm phát hành trong tháng khuyến mãi tại TP.HCM năm 2007 này, rất nhiều đơn vị chỉ nêu chung chung: giảm giá 20 - 50% “một số mặt hàng”, hoặc hàng bán giá đặc biệt giảm từ 50% trở lên với “số lượng có hạn”… Tình trạng khách đến, nơi bán trả lời “hết hàng” vẫn tiếp tục xảy ra. Với hình thức đăng ký khuyến mãi suốt tháng 9.2007, mà không đủ hàng bán cho khách, là nhà kinh doanh đã thông tin sai sự thật Theo tintuconline.vietnamnet.vn/vn/kinhte/165075 . Nhằm đảm bảo quyền lợi của thương nhân khác, PL cấm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thực hiện KM mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa theo quy định của PL. Mức phạt hiện hành đối với những vi phạm này từ 3 – 5 triệu VNĐ. Thông qua các quy định về Quảng cáo Thương mại: Quảng cáo là hoạt động có tính thông tin một chiều từ phía người ra quảng cáo nhằm mục tiêu đã định là thái độ ứng xử cuối cùng của khách hàng. Vì những lí do của việc bảo vệ NTD trong hoạt động QCTM như đã phân tích ở phần I của bài viết này, ta có thể rõ thấy nếu pháp luật không quy định một cách cụ thể và có cách thức kiểm soát thoả đáng thì việc sử dụng quảng cáo của doanh nghiệp rất dễ làm ảnh hưởng tới NTD. Chính vì thế, LTM 2005 và một số văn bản khác có liên quan như Pháp lệnh quảng cáo 2001, Nghị định số 24/03/NĐ-CP ngày 13/03/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh quảng cáo, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PL-UBTVQH10, Nghị định số 69/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng và Nghị định của chính phủ số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại có nhiều quy định về hoạt động quảng cáo với mục đích bảo vệ người tiêu dùng. - Về sản phẩm quảng cáo thương mại Sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa nội dung và hình thức quảng cáo thương mại. Đ105 LTM quy định: “sản phẩm quảng cáo thương mại gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung sản phẩm quảng cáo thương mại”. Cụ thể hoá nó, để bảo vệ người tiêu dùng, Nghị định số 37/2006/NĐ - CP quy định về nội dung của sản phẩm quảng cáo thương mại đối với một số loại hàng hoá dịch vụ đặc biệt như sau: “Quảng cáo thương mại đối với hàng hoá là sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em. Quảng cáo thương mại đối với hàng hoá dịch vụ liên quan đến thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi, giống cây trồng phải tuân thủ theo các quy định pháp luật có liên quan và ko được chứa các nội dung: khẳng định tính an toàn, tính không độc hại nhưng không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khẳng định về hiệu quả và tính năng của thuốc thú y, thuốc bảo vệ htực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi, giống cây trồng nhưng không có cơ sở khoa học; Sử dụng tiếng nói, chữ viết hoặc hình ảnh vi phạm quy trình và phương pháp sử dụng an toàn thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật. Ngoài những loại hàng hoá không áp dụnh tiêu chuẩn, quy định kĩ thuật về chất lượng hàng hoá, thương nhân chỉ được phép quảng cáo thương mại đối với hàng hoá thuộc diện phảo áp dụng tiêu chuẩn quy định kĩ thuật tương ứng sau khi hàng hoá đó được cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn quy trình kĩ thuật của cơ quan quản lý nhà nhước có thẩm quyền hoặc được công bố tiêu chuẩn chất lượng” (Điều 23, 24, 25, 26). Những quy định trên nhằm đảm bảo nội dung quảng cáo mà chủ thể thực hiện quảng cáo muốn thể hiện là phù hợp với các quy định khác của pháp luật về hàng hoá, dịch vụ mà họ muốn giới thiệu, công bố rộng rãi ra công chúng. Với những quy định chặt chẽ như vậy đối với nội dung sản phẩm quảng cáo sẽ hạn chế được việc người tiêu dùng nhầm lẫn, dẫn đến việc tin tưởng và sử dụng những hàng hoá, dịch vụ không đạt tiêu chuẩn. Cũng như các loại quảng cáo khác, quảng cáo thương mại cũng phải tuân thủ các quy định về hình thức. Với mục đích tránh việc người tiêu dùng không phân biệt được và nhầm lẫn về hàng hoá dịch vụ quảng cáo, hình thức quảng cáo phải có dấu hiệu phân biệt những thông tin quảng cáo với những thông tin không phải là quảng cáo theo quy định tại khoản 3 điều 7 Pháp lệnh quảng cáo. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ trách nhiệm đối với nội dung sản phẩm quảng cáo:“thương nhân kinh doanh quảng cáo thương mại phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu nội dung sản phẩm quảng cáo của mình vi phạm các nội dung quảng cáo bị cấm tại Luật thương mại và các nội dung về sản phẩm quảng cáo” (Điều 27 NĐ số 37/2006/NĐ - CP). Việc quy định rõ trách nhiệm đối với nội dung sản phẩm quảng cáo chính là góp phần tạo ra trách nhiệm một cách gián tiếp đối với người tiêu dùng khi họ biết đến, tin cậy và sử dụng hàng hoá dịch vụ của nhờ hoạt động quảng cáo. - Về các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm: Luật thương mại 2005 quy định một số hoạt động TM bị cấm trong đó có một số hoạt động QC bị cấm nhằm bảo vệ quyền lợi cho NTD như sau: “Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hoá, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hoá, dịch vụ” (Đ109.7 LTM). Những thông tin gian dối, sai sự thật mà chủ thể QC thể hiện thông qua QC sẽ làm cho NTD khó có thể tránh khỏi sự nhầm tưởng về số lượng, chất lượng, công dụng cũng như các đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ được quảng cáo và sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó; điều này rõ ràng làm ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng. Việc cấm những hoạt động quảng cáo sai sự thật là hết sức thiết thực để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong QCTM. “Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật” (Đ109.9 LTM). Hành vi cạnh tranh không lành mạnh không chỉ xâm hại đến lơi ích của đối thủ cạnh tranh mà còn xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của NTD. Khi có mặt trên cùng một thị trường liên quan, các thương nhân có chung mục tiêu là “khách hàng”; chính vì vậy, mọi thủ pháp cạnh tranh mà thương nhân áp dụng đều tác động đến NTD; nếu cạnh tranh đúng luật họ sẽ được lợi, còn ngược lại, họ sẽ trở thành “nạn nhân” của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi hạn chế cạnh tranh. Chính vì vậy, LTM 2005 đã cấm hành vi QC nhằm cạnh tranh không lành mạnh ko chỉ để bảo vệ lợi ích của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan mà còn để “bảo vệ” người tiêu dùng trước sự xâm hại của những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua hoạt động quảng cáo. Nhìn chung những quy định của luật thương mại 2005 về quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn chung chung, chưa được cụ thể chi tiết, còn trùng lặp và chưa có sự thống nhất giữa Luật thương mại và các văn bản khác quy định về vấn đề này. Hơn nữa tính hiệu quả của các quy định trong Luật thương mại đối với việc bảo vệ người tiêu dùng cũng chưa thật sự cao, chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra với vấn đề này. 3. So sánh vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong Luật thương mại và Luật cạnh tranh: Qua 2 phần phân tích trên, chúng ta đã tìm hiểu việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông qua các quy định về LM và QCTM dưới góc độ Luật Thương Mại lẫn Luật cạnh tranh 2004. Tuy nhiên, một điều phải công nhận rằng: nếu như LTM tạo ra một môi trường tự do cho các TN tự do phát triển, không kìm hãm thì Luật cạnh tranh lại có tính chất “kìm hãm”, “giới hạn” phạm vi tự do hoạt động đó. Vai trò của Luật cạnh tranh được phát huy trong trường hợp các TN vượt ra khỏi phạm vi cho phép của mình, lạm dụng vị trí độc quyền, lũng đoạn NN hay cạnh tranh không lành mạnh với các TN khác. Như vậy LTM và LCT có tác dụng bổ trợ lẫn nhau. Cũng dó đó mà việc bảo vệ quyền lợi NTD dựa trên LTM và LCT cũng những nét tương đồng và khác nhau. Những nét tương đồng: Thứ nhất, theo quan niệm của Luật thương mại cũng như Luật cạnh tranh thì vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của cả mỗi thương nhân. Như vậy, đây là trách nhiệm của toàn xã hội . Thứ hai, đó là việc thực hiện vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước hết bằng việc tuân thủ pháp luật của thương nhân Thứ ba, về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Luật thương mại cũng như Luật cạnh tranh đều qui định về vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và cơ chế để giải quyết quyền lợi của cho họ khi có sự vi phạm và trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng, khách hàng của họ . Những nét khác biệt: Thứ nhất, Dưới góc độ Luật thương mại thì người tiêu dùng có quyền trực tiếp hoặc thông qua hiệp hội của mình khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự khi quyền lợi của họ bị xâm hại. Còn dưới góc độ Luật cạnh tranh, người tiêu dùng có quyền trực tiếp hoặc thông qua hiệp hội của mình khởi xướng vụ việc theo thủ tục tố tụng cạnh tranh khi quyền lợi của họ bị xâm hại bởi các hành vi khuyến mại, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành manh . Thứ hai, Luật thương mại bảo vệ quyền lợi, lợi ích của người tiêu dùng bằng cách qui định một cách cụ thể thế nào là quảng cáo, khuyến mại lành mạnh, và trách nhiệm của thương n
Luận văn liên quan